Thứ Năm, 21 tháng 6, 2018

Không gian chiều thứ 4? Vũ trụ trong một vi trần

46 - VŨ TRỤ TRONG MỘT VI TRẦN

Nếu ta xem xét đối tượng của một vi trần (m') trong cả vũ trụ. Thì đó chính là góc quan sát thuộc về quan điểm của Nhà Chúa và Thuyết Tương Đối.

Bằng như ta xem xét cả vũ trụ trong một vi trần. Ắt điều đó có nghĩa là vị trí và tư duy của Nhà Phật lẫn Thuyết Lượng Tử rồi vậy. Điều này cũng giống như hai mặt của một đồng xu thôi.

Thế cho nên Nhà Phật có mô tả đến dụ ngôn về một thế giới mà trong đó đầy rẫy những hạt châu. Và trong mỗi hạt châu đó, lại còn chứa cả một thế giới khác nữa! Thuyết Lượng Tử cũng mô tả giống như thế không sai! Điều đó chính là cả một thế giới hạ nguyên tử nằm trong một nguyên tử.

Kinh Dịch thì luôn luôn đứng giữa hai quan điểm đó với sự đối lập âm dương bao gồm Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ. Vì thế chúng ta cũng luôn là yếu tố hạt Nhân để dung hòa giữa Thiên, Địa trong hệ thống Tam Tài mà không thể vắng sự hiện diện cho được.

Chúng ta cũng nhớ trong loạt bài ký sự này. Tôi thường trình bày giới thiệu tổng thể lướt qua trước, để chúng ta có một khái niệm tổng thể. Sau đó rồi mới dần đi vào chi tiết và mổ xẻ đến sự việc cụ thể sau. Vậy nên bài viết này cũng mang tính giới thiệu tổng thể qua để các bạn nắm bắt trước như một nền móng, để chuẩn bị thiết kế những cơ cấu của mô hình, được xây dựng trên nền móng này.

Chúng ta cùng làm quen với những "dữ liệu" thi công để tạo nên công trình vũ trụ trong một vi trần ( m' ):

Trước hết, nếu muốn bàn về Thiền. Chúng ta phải biết được rằng: Bên Đạo Chúa cũng có phép Thiền! Thế nhưng bên giáo phái này biết phương pháp này rất cao siêu và khó lĩnh hội vô cùng. Với tư duy của người dân bình thường là tuyệt đối không thể lĩnh hội nổi. Từ đó sẽ xảy ra làm loạn hết chân lý của Đạo. Thế cho nên giáo dân là không được phổ biến mà biết tới cho được. Chỉ dành riêng cho các vị đã được đào tạo làm Cha tham thiền mà thôi. Bằng như vị Cha nào mà chưa nắm được phép thiền đó. Cũng nên tự nghiền ngẫm mà xét lại bản thân. Bởi vì điều này trong đạo Chúa được tiềm ẩn trong "7 phép bí tích". Cũng như "7 pháp liên hoa" của đạo Phật vậy. Bí tích được hiểu như là; Những bí mật của Chúa, được tích lũy và tiềm ẩn trong 7 phép (phương pháp) đó!!!

Bởi vì trước khi muốn đào tạo để được tuyển chọn vào vị trí đó. Ít nhất, họ phải đạt đủ 3 bằng cấp đã. Ví như thứ nhất là bằng đại học. Thứ hai là bằng ngoại ngữ. Thứ ba là bằng chuyên môn nào đó của riêng họ. Ta thấy đó là một con người với một tư duy đã đầy đủ tri kiến thức rồi. Rất khó có thể bị rơi vào sự mê tín mà lầm lạc sự việc cho được. Và khi các vị Cha cầu nguyện cũng chính là lúc họ tham thiền.

Về cách xử sự như thế, nên ta thấy Nhà của Chúa không rối loạn, mất trật tự và dễ rơi vào mê tín như bên Nhà của Phật. Do bên Nhà Phật là phát huy pháp Thiền ra cho cả bàn dân thiên hạ biết đến. Thậm chí kẻ chán đời, không bám được với cuộc sống. Thất tình, đổ nợ v.v... cũng tìm đến nương nhờ với cửa Chùa được. Dần rồi họ tiếp cận Kinh, thâm nhập thiền với một tư duy đầy khiếm khuyết như thế, khiến nên gây rối loạn hết cả đạo pháp của Nhà Phật đi. Đa số lại có nguyên nhân như thế cả. Đại đa số thứ dân thì lại không đủ tri thức. Đại loạn tất phải đến đối với Phật Pháp là tất yếu.

Đơn giản thôi. Tôi nói rồi; Ta xem Chúa như Cha, Phật như Mẹ. Hễ nhà nào còn Cha thì có trật tự. Mất Cha, còn Mẹ thì con cái dễ rơi vào cảnh rối loạn tôn ti ngay. Ai mến Cha hơn cũng được, ai thích Mẹ hơn cũng tốt. Tuy nhiên phận làm con thì thương yêu cả Cha lẫn Mẹ mới là chu toàn vậy. Ý thức qua như thế, chúng ta tiếp tục bàn thảo nhé:

Khi Bồ Đề Đạt Ma hướng Đạo sang Trung Quốc. Đạt Ma vốn có nhân thân là một Võ Sư trước khi là Thiền Sư rồi. Với phương pháp Thiền nói chung. Yêu cầu chính, cốt là phải giữ xương sống lưng cho thẳng đứng. Mục đích là phân khoảng cách, vị trí các huyệt mạch trên cơ thể thẳng hàng và đối xứng với nhau để khí vận hành đúng phân, độ hành vận hợp với chu trình.

Trong quá trình tham thiền, sẽ có tình huống mà thiền giả bị ngủ quên và rơi vào cảnh hôn trầm. Lúc đó, thì xương sống rất dễ bị cong gập lại (do ngủ gục trong lúc thiền). Đã có rất nhiều vị bị rơi vào hôn trầm, mà cứ ngỡ là mình nhập định đến độ đã quên hết tất cả mọi sự việc xung quanh!

Thường thì họ không đi đến đâu được cả, nên khi ngủ quên và thức dậy là xong. Bằng như khá hơn, hoặc tình cờ gặp phải lúc tụ khí thì khi giật mình tỉnh lại là rơi vào trạng thái hoảng loạn ngay thôi. Vì thế nên hôn trầm là rất nguy hiểm. Nhất định không được sai lầm cho được.

Để tránh tình huống ngủ gục trong lúc tham thiền sẽ làm cho xương sống bị gục xuống. Đạt Ma đã lập ra thế ngồi Kiết Già! Mục đích chính của thế ngồi này trong võ học là khóa xương sống đứng thẳng và không thể gục cong xuống được. Bảo đảm là trong lúc thiền mà có lỡ ngủ quên, thì xương sống vẫn thẳng, không thể cong gục lại được.

Thế rồi lại xảy ra sự việc là: Một số ít các "vị cao thủ", biết được nguyên do đó của thế kiết già. Trong khi tập ngồi kiết già là rất lâu mới quen. Thế nên họ ngồi bán già cũng được, miễn sao giữ thẳng lưng là đủ đáp ứng theo yêu cầu đòi hỏi của pháp thiền. Rồi lại dẫn đến đứng, rồi đứng một chân, thậm chí nằm lăn ra luôn!!! Lại loạn.

Hỏng hết cả rồi! Đạo nào mà lại thiếu trang nghiêm rồi ra loạn trật tự như thế cho được. Phàm, Đạo mà thiếu sự tôn nghiêm là hỏng. Ngắn gọn thế thôi. Vả lại sự thâm sâu của đạo pháp nói chung là ta không suy xét thấu tới được. Điều tưởng chừng như đơn giản nhất như chiếc áo khoác trên mình nữa. Chúng ta xem kỹ lại đi. Cả Chúa và Phật đâu có mặc áo! Chiếc... khoác trên người đó là một tấm vải đơn thuần mà thôi.

Về Chúa thì ta phải tìm ra cái lý đó khó hơn ở chỗ: Khi quân dữ thấy Chúa đã chết trên cây thánh giá rồi. Bèn xúm lại mà tranh giành đồ của Người. Bất chợt có ai đó la lên: "Cái áo" của người này không có đường chỉ may nào thì làm sao mà xẻ ra để chia cho được "!". Ta phải đủ để hiểu rằng; Không có đường chỉ nào thì điều đó có nghĩa là một tấm vải còn nguyên vẹn rồi vậy. Đó là một trong vô cùng những điều gọi là nhiệm mầu.

Phàm đã nợ là phải trả. Ngay cả cái nợ tầm thường nhất của con người là cơm, áo. Hễ còn nợ cơm là cơm còn đòi, hễ còn nợ áo là áo phải xiết. Thế cho nên ta mới thấy Phật đến khi Người vất luôn cả cái nợ cuối cùng là chén cơm (bình bát) xuống sông là Người đắc đạo! Bởi thế nên những cái áo mà mọi tín đồ của bất kỳ giáo phái nào cũng đều phải là vải thô. Mục đích chính của nó là không có sợi nilon để cản (cách điện, newtrino) trở nguồn năng lượng tương tác và lưu chuyển trên người. Ngay cả lưng quần như hiện nay là cũng đủ xiết ngang hệ thống Kinh Lạc rồi. lấy đâu để khí vận hành cho được nữa. Vậy nếu ta nằm, hệ thống Kinh Lạc là không thể nào vận hành cho được. Đó chính là những gì được gọi là sự vi diệu vô biên của đạo được.

Bởi chúng ta không thể nào biết được rằng: Tất cả mọi pháp thiền với mọi phương pháp tưởng là vận khí hành đạo xưa nay, đều khiếm khuyết cả! Bởi xét theo trục dọc thân thể, kể cả bao gồm trước sau luôn đó. Chỉ mới là hệ thống của Lạc thôi! Đó không phải là hệ thống của Kinh bao giờ cả!! Tôi có nói rồi; Chúng ta mới có Vĩ Tuyến, chưa có Kinh Tuyến thì lấy gì mà xác định vị trí cho được. Và càng không thể nào biết được là mình đang đi lạc ở đâu nữa cả!!! Hay thật.


Bằng như chúng ta cứ xem các phương pháp đó với mục đích là để nghỉ ngơi, hoặc thư giãn thì được. Thậm chí dùng để điều trị một số bệnh cũng được. Tôi không có ý kiến gì, cho dù ai đó có chổng ngược đầu. Ở đây chúng ta đang cùng thảo luận về Đạo. Vì thế, ta xác định được và yêu cầu thống nhất chung là phải giữ thẳng xương sống trong suốt quá trình tham thiền là được. Các bạn cứ tùy ý mà chọn cho mình một cách ngồi nào mà tự cảm thấy dễ chịu mà thoải mái nhất. Cái lý khó mà dễ, dễ mà khó vốn là như thế. Tạm như thế trước nhé.

Ta lại bàn đến cách thở. Thường thì ta vẫn cứ hay xem xét chi tiết đến những điều dư thừa. Và thường bỏ qua những chi tiết nhỏ quan trọng đến độ bất ngờ làm thay đổi toàn bộ cục diện như:

Xét cái nghĩa đơn thuần nhất của hai từ "Hô Hấp" thôi. Hấp, có nghĩa là hít vào bằng mũi! (để hấp thụ khí). Vậy Hô, phải được hiểu chính xác là thở ra bằng miệng!! Như ta lấy hơi để..., hô lên... Vậy thì làm sao mà ta có thể hô lên bằng mũi cho được!!! Thú vị thật!

Cái lý của hệ tuần hoàn và chu lưu của cái khí của đạo trong vũ trụ tự nhiên vốn là như thế cơ mà?! Thế sao chúng ta lại cứ phải ngậm miệng lại mà thở chỉ vào ra có mỗi bằng mũi trong lúc thiền như vậy?! Do ta cứ nghĩ (chấp vào) phải ngậm miệng để nối liền Nhâm - Đốc mà giữ khí. Đạo vốn là hễ cố giữ là mất, bỏ đi là được kia mà?! Vậy thì ta cứ hấp thụ khí trong sạch vào, đào thải cái khí cặn tích tụ trong người ra. Các vị cứ giữ lấy cả khí trong lẫn đục mà dẫn vào các huyệt vị khắp cơ thể làm gì!? Tôi thảo luận gợi ý như thế thôi, tùy các bạn tham khảo và quyết định chọn cho mình một định hướng. Tạm như thế nhé.

Vấn đề tính mệnh và gốc rễ của tiểu vũ trụ và đại vũ trụ thì chúng ta đã biết qua rồi. Hãy xác định và chọn cho mình một vị trí trong guồng máy của tạo hóa đó để cùng vận hành. Như lần đầu tiên thì nhất định là ta phải quay về đúng với bản thể gốc đã. Sau đó mới có thể tùy tiện mà ra vào bất cứ thời mùa nào trong năm cũng được.

Ta phải biết: Không gian vốn là chân không. Là nơi để Trường (khí) tụ xứ và tán xứ trong đó. Vì thế nên khi (cái) Trường tụ xứ vào trong phạm vi của không gian đó, thì ta gọi là "nhiễm trường". Khi Trường tán xứ đi thì ta gọi là chân không. Vậy khi ta nói lên câu "môi trường", thì điều đấy có nghĩa là không gian đó đã bị "nhiễm trường" mất đi rồi vậy.

Từ đây suy ra...: Các môi trường của thành phố hiện nay là đã bị ô nhiễm hết cả rồi! Toàn là khí thải của công nhiệp hết cả, lấy đâu để mà trong sạch cho được. Tổng các thành phần đó, tôi gọi là tạp khí, mang đầy ô nhiễm, cặn bã. Đạo vốn trong sạch, thậm chí tôi gọi là "Thánh Khiết". Kết luận; Ta không thể tìm thấy đạo một khi đang tham thiền tại môi trường của mọi thành phố trên bình diện địa cầu cho được.

Phật Thích Ca thường nói; Mười Phương, Tam Thế tất cả các Phật đều phải quán bằng tai. Tuyệt đối, không có lối mòn nào khác.

Ta xem xét tiếp câu này như sau:

Năm giác quan thông thường đó, Phật gọi là Ngũ Tặc. Do ngũ Tặc này làm tác động, gây loạn mà che mờ Ngũ Uẩn đi. Vậy Ngũ Uẩn chính là những chức năng tiềm ẩn phía sau của năm giác quan thông thường của chúng ta. Ta phải kiến, ngộ và liễu cái uẩn giác này như sau:

Phật đã chỉ định thẳng ra là quán bằng Tai. Vậy xét trên Kinh Dịch thì Tai thuộc Thủy. Ta Khởi Thủy tại chức năng của Thính Giác để xem xét là chính xác rồi vậy. Bởi gốc tại mùa đông, mệnh thủy, tính trầm lắng. Khí thuộc hàn, Vận hành trong Kinh Thái Dương, vào ngũ tạng định xứ tại Thận, huyệt mệnh môn, Dinh khí khởi thuận chiều. Tương ứng ra Lục Phủ trú quán ở Bàng Quang, huyệt Đan Điền, Vệ khí phát nghịch chiều. Thông dẫn ra khai khiếu ở Tai. (thủ pháp điểm huyệt người) Tạm như thế.

Ta đã nhìn thấu tướng tinh của nó rồi, có biến hóa thế nào cũng khó thoát ra khỏi sự quản thúc của ta cho được. Từ đó suy ra; Vậy là Phật đã ưu tiên cho những ai thuộc mệnh số an bài là Thủy để khởi động và có thể dễ nắm bắt nhất. (chúng ta chớ vội tiu nghỉu, vì mỗi mệnh là có một trọng trách của từng giai đoạn trong suốt cuộc hành trình). Vì thế, Mệnh Thủy được chúng ta thống nhất chỉ định lãnh ấn Tiên Phong nhé.

Chí ít thì khảo luận này cũng đã chỉ rõ cho chúng ta biết người mệnh Thủy khi tham thiền thì định tâm tại vị trí của Huyệt Đan Điền là sở trụ đắc địa của họ (thủ pháp định tâm). Tuy nhiên tất cả cũng đều phải quán bằng Tai chứ không hề có lối mòn nào khác hơn được nữa.

Bởi tại:

Trong cuộc sống hàng ngày. Ta đã quen nghe tất cả mọi hỗn tạp âm thanh của mọi tiếng động xung quanh tác động đến Tai. Điều này khiến gây nên việc che mất cái chức năng "Lắng" của Tai đi mất. Lắng, không phải là Nghe. Chỉ khi nào ta ở một nơi mà không gian xung quanh hoàn toàn không có tiếng động nữa. Thì lúc này tự nhiên Tai sẽ phát huy chức năng đó để Lắng.... nghe động tĩnh. Tại mọi phố thị, ta không có đâu một nơi yên ắng để Tai lắng tiếng động ra cho được cả.

Để đáp ứng được hai yếu tố Khí trong sạch và cái Lắng của Tai. Buộc chúng ta phải tìm nơi hoang vắng như... Núi rừng chẳng hạn. Đó chính là lý do tại sao các vị cứ phải tìm vào rừng hoang, đồng vắng để mà ngồi thiền.

Ta đang bàn đến Phật. Thế cho nên nếu ta ở một nơi hoang vắng trong rừng của mùa hè. Mọi âm thanh không tác động đến được. Lúc đấy chức năng của Tai sẽ phát huy khả năng để lắng được. Và lạ lùng thay! Âm thanh giữa rừng mùa hè chỉ duy nhất có tiếng ve sầu mà thôi. Tôi có giới thiệu rồi. Ve Sầu còn có tên khác nữa là Thiền! Bởi nó là Thiền nên tượng trời ký gửi ý trong đó là "Thoát Xác"!!

Thế nhưng khi ta đã quen với tiếng Ve đó rồi thì Tai lại dẫn ta tiếp tục lắng... đến tiếng côn trùng là... Dế!!! Đặc biệt hai loại âm thanh này lại có một cường độ sóng âm rất cao! Nó có cùng tầng số với tầng sóng âm ba của vũ trụ. Vì thế nó sẽ dẫn chúng ta bắt được tầng số của âm ba vũ trụ đó rất nhanh!

Đại khái nó có âm gần nhất mà nhân loại có thể mô tả như câu: Úm ma ni pát mê hùm!!! Nó có nhịp điệu trầm bổng, và rền vang như thế. Các vị Lạt Ma Tây Tạng hoặc Hindu thường dụng nó trong lúc tham thiền cốt là để dẫn thiền giả đồng nhất mà nhập vào cửa ngõ của âm thanh này được. Đó là việc làm của các Lạt Ma hòng để dìu dắt thiền giả còn đang trong vô minh. Mọi người không biết được, chỉ tin câu niệm chú như thế mà nhiếp trụ thôi. Chắc chắn sẽ liễu ngộ rất nhanh trong quá trình Tham Thiền. Rồi Thầy, Bà lại tán thêm đến đỗi xem như đó cũng là một câu thần chú mà trị bệnh nữa!!!


Khi du nhập sang đây, hóa tam sao thất bổn. Thành ra Án ma ni bát mê hồng! Rồi lại gặp phải những thiền sư mê lầm, tán ra ý nghĩa đó là; Ngọc báu trong hoa sen!! Rồi ngạo nghễ mà giảng bất kể thiên hạ khắp cõi ta bà mà giáo hóa chúng sanh!!! Để giải thoát !!, ? Vậy câu niệm lục tự di đà của có tác dụng dẫn ta nhập vào cõi đạo đó được. Tuy có hơi khó khăn là rất xa với ngữ âm của âm ba thực tại của vũ trụ.

Tuy cái nhịp điệu của vũ trụ vẫn còn đó. Thế như cái âm ba là có giảm mất giá trị nguyên thủy đi rồi vậy.

Quán vũ trụ bên ngoài đến độ bão hòa (có thể nghe được tiếng nụ hoa tách nở nhụy hoặc tiếng mây cuộn ở tận thinh không) rồi, Tai ta tự nhiên lại bắt đầu quán đến trong thân. Đến lúc này thì ta mới bắt đầu có thể liễu ngộ ra là tại sao Phật lại gọi là Ngũ Tặc. Và đồng thời cũng kiến ngộ Ngũ Tặc đó hoành hành ra sao. Bởi vì ta không thể nào định yên Ngũ Tặc đó cho được cả! Chỉ đến khi nào ta phát giác ra được chức năng Lắng của Tai mới có đủ khả năng để định yên được Ngũ Tặc đó. Vì thế nên Tai mới lãnh ấn tiên phong để dẹp giặc được. Các chức năng khác là bất khả quán..., xuyến.

Công việc của Tai là dẹp loạn, trả tất cả các Tặc đó về với gốc rễ định quán của chính nó. Sau rồi Tai cũng giải giáp và trầm lắng với chính bản tính của mình luôn thì; Tai được Tạo Hóa trả công ngay lập tức là ta nghe vẳng được tiếng Nhạc Trời, tấu khúc khải hoàn!

Tiếng nhạc trời đó, như báo hiệu cho thiền giả biết đã chính thức nhập định và bắt đầu đi vào cõi thiền. Ta có thể nghe âm ba của tiếng nhạc đó vang rền khắp vũ trụ. Tựa hồ như hằng muôn muôn, vạn vạn tiếng cầu kinh của khắp cõi Tam Giới đồng rền xướng một lượt vậy. Lạ một điều là không chỉ khi ta tham thiền. Ngay cả khi ta đã bước ra khỏi nẻo thiền rồi. Bên Tai vẫn cứ nghe tiếng nhạc đó du dương mãi. Nhất là khi đêm về, càng vang rền một cách rõ rệt. Ta lắng tai kỹ lại, vẫn nghe được một cách rõ ràng chứ không hề mơ hồ gì ở đây nữa cả.

Nếu tôi cứ nói mãi. Thì sẽ không cùng mà dứt ra cho được. Không có một trật tự nào ở đây cả. Các bạn sẽ dễ hoang mang. Vậy tôi tạm kết luận như sau:

Quy trình của 49 ngày đó, có những diễn biến theo một trật tự nhất định như sau (với điều kiện là ta đi đúng hướng):
Tuần thứ Nhất; Khí Trời đủ chu lưu và thanh lọc khắp cơ thể.
Tuần thứ Hai: Khí Đất cũng hoàn thành một quy luật như thế.
Tuần thứ Ba: Khí Người dung hòa giữa hai khí Trời và Đất mà vận hành khắp một lượt trong thân.
Tuần thứ Tư: Số 4 cũng là số thành. Cho nên ta nhất định sẽ nghe được Nhạc Trời.
Tuần thứ Năm: Tinh tích đủ và Tụ kết thành chất trong người. Lúc này ta sẽ nghe được mùi của Tinh hoa của trời đất đó thoát ra bên ngoài như mùi Trầm Hương vậy. Điều này cũng báo hiệu cho ta biết là trong thân đã trong sạch và hóa Thánh. Vì sự trong sạch đến độ Thánh Khiết mới phát trầm ra được. Như mọi sự thường nhật của chúng ta, nếu xông Trầm Hương là đã khử sạch mọi uế, tạp khí và thể hiện sự tôn nghiêm rồi.
Tuần Thứ Sáu: Thần xuất. Bởi mùi Hương Trầm của Tinh khí kết tụ từ anh linh trời đất, giống như "mồi nhử" thì Thần mới xuất ra được. Chưa có mồi của Tinh, Trầm anh linh đó. Nhất định Thần không thể xuất hiện cho được. Lưu ý: Mùi trầm này không phải chỉ lúc ngồi thiền mới phát. Mà cả khi ta xả thiền, mùi Trầm đó vẫn phát ra khắp cả nhà suốt ngày vậy.
Tuần thứ Bảy: Khi đã hội đầy đủ Tinh, Thần, Khí rồi hẵng nói đến chuyện vận khí mà mở Luân Xa cho được. Lúc này mở Luân Xa nào. Ắt đắc sở dụng ngay công năng đó, không sai được.

Luân Xa là rất khó mở: Đại đa số hiện nay cũng chỉ là tưởng tượng về nó mà thôi. Không hề có chuyện khai mở như hiện nay nghĩ như thế cho được. Ví dụ cho có may phúc mà tự nhiên mở được. Ta còn phải biết là: Cái khí mà ta đang nạp theo Luân Xa vào đấy. Nó là dạng khí nào trong nguyên, chính, tà, tạp..., khí?

Điều quan trọng nhất là: Trong thân của ta đã có dược liệu gì chưa (Tinh, Thần) để còn hòa dược liệu mà khai huyệt, đón rước đạo nữa. Hầu hết đều là những cái bình rỗng và cũng chỉ đón loạn khí mà thôi. Vô Phúc, rước phải Tà Khí ắt là hại thân, hại đời luôn rồi vậy. Có luân hồi chuyển kiếp, cũng khó mà trả dứt nghiệp đã trót gieo trong mê muội cho hết trong một kiếp được.

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét