Thứ Năm, 21 tháng 6, 2018

Không gian chiều thứ 4? Căn nguyên phát triển kinh phật và sử tiên

50 - CĂN NGUYÊN PHÁT TRIỂN KINH PHẬT VÀ SỬ TIÊN
Sự phát triển của của nền khoa học dựa trên hai nền tảng để thiết kế mọi Lý Thuyết hay Định Luật là:

Khi ta có mô hình, thì dựa trên mô hình đó mà lập lý thuyết để mô tả. Hướng thứ hai thì ngược lại như: Nếu không có mô hình, thì ta lập giả thuyết. Rồi dựa trên giả thuyết đó mà thiết kế và xây dựng mô hình.

Chúng ta xét thấy giữa lịch sử của nòi giống Tiên Rồng và lịch sử của Nhà Phật vốn đã có cả mô hình lẫn lý thuyết. Tuy nhiên những mô hình cũng như lý thuyết đó rất tản lạc và bị vùi lấp cùng với mô hình của thời gian lẫn không gian! Vậy sau đây, tôi sẽ phác thảo lại bức tranh đó như sau. Chúng ta cùng nhau thưởng lãm nhé:

Lưu ý: Bởi Einstein từng ước mơ: “… Có lẽ ba trăm năm sau, chúng ta đã phải quay trở về với vấn đề gốc của sự chuyển động. Dò tìm những manh mối nào đã từng bị bỏ sót qua trước đây. Và bằng cách đó, chúng ta sẽ vẽ lại bức tranh khác của thế giới”. Đã thế, tưởng không có gì bất hợp lý, khi tôi phác thảo bức tranh đầu tiên này như sau (chỉ mới giới hạn trong miền không – thời gian của Sử Tiên và Kinh Phật):

Vào thời điểm đương thời tại thế của Phật Thích Ca. Người biết rất rõ về sự kiện của nạn lụt hồng thủy vừa xảy ra cách đó không lâu. Dĩ nhiên Người càng hiểu rõ và thấu suốt mọi sự việc hơn bất kỳ ai khác trên bình diện địa cầu khi đấy… Ví như ẩn dụ của Phật về hình tượng của một con Rùa mù trên một đoạn của dòng sông. Đang tìm bọng cây mục để xuôi ra biển cả…

Ta suy thấy dấu tích của Thần Quy trên sông Lạc, dẫn Ông Ích và Đại Vũ khai sông ra biển để trị nạn hồng thủy khi xưa. Đến thời điểm của Phật ra đời thì giai đoạn lịch sử đã lập lại quy luật phản ảnh trong trận lụt Sơn Tinh và Thủy Tinh. Và sự chuyển kiếp của con Rùa ngày trước, đang hóa thân vào Thần Kim Quy mà nhà nước Âu Lạc đang tôn thờ trong thời An Dương Vương.

Phật Thích Ca đã quán xét thiên tượng của vạn sự trong vũ trụ…, và Người biết rằng: Còn một yếu tố quan trọng nhất, để hình thành Đạo Pháp. Đang ở phương Đông - Nam, đối với nước Ấn Độ khi đấy. Thế cho nên ta mới thấy sự xuất hiện của hai đại đệ tử của Người tại Việt Nam! Người thứ nhất chính là Kiều Trần Như, đến nước Phù Nam!! (là miền nam việt nam ngày nay). Và người thứ hai không ai khác hơn là Đề Bà Đạt Đa, tới nước Âu Lạc!!! (thuộc miền bắc việt nam ngày nay).

Dĩ nhiên với khả năng của Phật thì sự việc hai nước này chia hai, từ sự kiện Lạc Long Quân và Âu Cơ tại Nghĩa Lĩnh, là khó có thể che mắt Người cho được. Thế cho nên ta mới thấy có sự hiện hiện của cả hai vị đại đệ tử này của Người trong thời điểm đấy, thấp thoáng trong một vài trang sử khuất của Việt Nam tại hai nước này.

Vật chứng còn vương dấu tích của Đề Bà Đạt Đa và Kiều Trần Như lại là ở một vài tỉnh miền bắc và miền nam hiện nay: Vẫn còn thờ tượng “Chim Thần Kinari và Garuda”! Bởi hai vị này trước khi về với Phật, tiền thân của họ là đạo Balamon và Kỳ Na giáo. Và loài chim này, Phật Thích Ca cũng từng gọi là Kim Sí Điểu (Ca Lâu La)!!

Mục đích chính của Phật ngày đó không phải truyền bá đạo sang đây. Mà là tìm Kinh Dịch của dân tộc Kinh Việt và Dương Việt, đang tản lạc do chiến tranh khi đấy gây ra. Bởi Kinh Dịch là yếu tố chính, quyết định để thành đạo và có tầm gây tác động ảnh hưởng lên toàn cục của vũ trụ. Phật Thích Ca biết rất rõ điều này, và Người muốn hợp nhất đạo làm một để đi đến sự chu toàn của Đạo. Dĩ nhiên hai vị đại đệ tử đó phải bày tỏ cũng như chứng minh chính pháp của Phật đối với hai nước này, và cả khu vực toàn vùng khi đấy là chính đáng rồi vậy.

Thế nhưng hai vị đại đệ tử ngày đấy, đã không tìm thấy Kinh Dịch tại hai nước này!? Nguyên do là họ không hề biết rằng: Chu Văn Vương đã trộm, cắp mất Kỳ Thư này từ thời Vua Hùng Vương thứ 6 trước đó rồi. Phật xét tượng thiên thư, quán thế địa lý mà biết được nguồn gốc Kỳ Thư này tại hai nước của dân tộc Việt khi đấy, Thế nhưng hiện vật là Kinh Dịch đã bị thất lạc mất từ bao giờ rồi?!

Từ đây ta có thể suy ra và hiểu được vì nguyên cớ gì, mà Đề Bà Đạt Đa sau khi trở về từ nước Âu Lạc, đã nổi loạn cùng Phật Thích Ca rồi vậy. Ta thấy là Đề Bà Đạt Đa vốn là anh em chú bác với phật, thuộc hàng vương tôn nên mới dám làm loạn cùng Phật. Còn Kiều Trần Như là không dám rồi.

Mọi chuyện lại rơi vào quên lãng… Đạo Phật bắt đầu suy thoái tại Ấn Độ trước sự xuất hiện của Chankara vào thế kỷ thứ 1 trước công nguyên. Và người ta lại quay trở về với đạo gốc của họ ở Ấn Độ là Hindu. Đúng với nhận định của Phật là sau 500 năm sau, mạt pháp vậy.

Đến thế kỷ thứ hai sau công nguyên. Long Cơ khởi xướng và lập ra Đại Thừa và Tiểu Thừa. Ta thấy Long Cơ truyền lại cho em của mình là Long Trí. Và Long Trí đã truyền sang Mông Cổ và Tây Tạng. Vậy ta xét thấy; Nguồn gốc cũng như tinh hoa của Đại Thừa đang được phát huy cao nhất là ở tại Tây Tạng. Và hiện nay là Đạt Lai Lạt Ma đang là kế thừa tinh hoa đại thừa của Phật Pháp chứ không phải bất kỳ một nơi nào nữa cả. Bởi các vị Lạt Ma là hiện nay có thể đắc quả truyền kiếp mà nhận kế thừa bảo pháp của Phật di truyền các đời nối tiếp. Ngoài ra tất cả các nơi khác trên bình diện địa cầu, không hề đắc quả vị này của pháp môn đại thừa cho được.

Ví như vị Lạt Ma của kiếp này phải bỏ xác để chuyển kiếp. Thì vị đó liền mang các pháp ấn. di bảo mà chôn, dấu tại một nơi nào khác mà không một ai được biết để gửi lại cho kiếp sau. Sau khi qua đời, liền sau đó nếu đầu thai tái sinh lại bất kỳ là ai khác ở kiếp lai sinh đó. Người này liền lên tiếng mình chính là Lạt Ma truyền đời kế tiếp, và người đó liền mô tả chính xác từng hiện vật đã chôn giấu, liền đi đến khai quật lên nhận lại, để chứng tỏ là hiện thân của kiếp trước vậy. Cho nên, nếu nói về Phật pháp đại thừa, ắt tinh hoa là ở tại Tây Tạng rồi vậy.

Ta xét thấy mãi đến thế kỷ thứ 5, thì Bồ Đề Đạt Ma lại quyết định đi tìm kỳ thư một lần nữa. Và dĩ nhiên Đạt Ma phải sang Trung Quốc thôi. Vì Đạt Ma biết ngày trước Đề Bà Đạt Đa và Kiều Trần Như đã từng sang nước Việt rồi mà không tìm thấy bên đó cho được.

Và Bồ Đề Đạt Ma đã gặp phải Đạo Lão và Đạo Khổng đang thời thịnh vận tại bên Trung Quốc. Hai mối đạo này đều châm rễ trong Kinh Dịch mà phát triển cùng nhóm bách gia khi đấy. Thế nên ta thấy Tạo Hóa đã khải định thiên tượng công cuộc tìm kỳ thư này vào cuộc đời của Đạt Ma trong giai đoạn đó như sau: Đạt Ma đã truyền cho vị tổ thứ nhất là Huệ Khả. Và vị tổ cuối cùng là Huệ Năng. Điều này có nghĩa là Phật pháp chỉ có “Khả - Năng” phát huy đến chu trình thứ 6 là hết! Bởi Huệ Năng cũng là vị tổ thứ 6, dứt!!!

Vậy ta lại phải khảo xét tại thời điểm cuối cùng này xem có những oan khốc nào đã xảy ra hay không? Bởi Đạo pháp của Phật chỉ có thể truyền đến đây là hết, và điều này cũng đã được phản ảnh thiên ý trong tượng trời như thế rồi. Chúng ta tiếp tục khảo xét nhé:

Nghe rằng: Khi ngũ tổ Hoằng Nhẫn truyền đời lục tổ thì ngũ tổ đã dự kiến truyền cho Thần Tú. Bởi Thần Tú là đồ đệ xuất sắc nhất khi đó. Bất ngờ lại xuất hiện Huệ Năng. Và cũng trộm biết được có sự việc là ngũ tổ Hoằng Nhẫn, đang đêm truyền bảo pháp cho Huệ Năng rồi dặn lục tổ chạy đi kẻo Thần Tú phát hiện!

Liền sau đó, khi Thần Tú hay tin Huệ Năng đã được truyền ngôi lục tổ và di ấn. Thần Tú bèn cấp tốc truy đuổi để cướp lại di ấn. Chúng ta không biết được sử sách mô tả cặn kẽ những chi tiết gì trong cuộc truy đuổi lúc đấy. Mà chỉ có thể nghe lại là trong lúc quýnh quáng mà chạy trốn Thần Tú lúc đấy. Lục Tổ Huệ Năng đã vô tình làm mất di ấn là bảo pháp truyền đời từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn! Thế cho nên pháp bảo chỉ truyền đến đời lục tổ là dứt. Vì không còn di bảo để tiếp tục truyền đời về sau nữa!! Thế cho nên ta thấy không hề có đời tổ thứ 7 kế thừa Bảo Pháp về sau.

Vậy trong chúng ta, đã có mấy ai quan tâm đến sự kiện này mà truy tìm chân lý thất lạc và bị chôn vùi cùng năm tháng qua hay không? Đa số trong các chúng phật tử hôm nay, khi nghe tôi nhắc đến sự kiện này đã nổi sân, si lên mà công kích rồi. Tuyệt đối không nghe chứ nói chi đến quan tâm cho được nữa. Họ chấp mê một cách tuyệt đối để tỏ ra là phật tử chính hiệu…, như Phật từng nói cùng A nan, trước lúc Người nhập niết bàn “?!”. Phật giáo đang khát khao có được những giáo đệ tỉnh thức chứ không cần mê lầm. Vì thế chúng ta cùng khảo xét một cách sáng suốt diễn biến tiếp theo để truy tìm chân lý như:

Chúng ta nhất định phải tìm xem ngày đó, lục tổ Huệ Năng đã đánh mất bảo vật gì của Phật, truyền đời sang Trung Quốc từ Đạt Ma sư tổ? Nếu thế, chúng ta hãy đứng vào hoàn cảnh (đồng nhất) từng nhân vật một để xem xét sự việc nhé.

Vậy chúng ta xét mình trên cương vị là Hoằng Nhẫn thì; Thần Tú là đồ đệ xuất chúng mà mình yêu thương nhất xưa nay. Thế nhưng tượng trời thì lại ứng vào Huệ Năng! Nếu ngũ tổ trao di bảo cho Huệ Năng thì hóa bất nhẫn trong lòng. Bằng như trao cho Thần Tú thành tàn nhẫn với lương tâm. Vậy thì hoằng nhẫn có nghĩa là; Ngày đó Hoằng Nhẫn đã trao cho Huệ Năng ngoài ngôi lục tổ, di bảo là cái Bình Bát!, như ta đã thấy phái Nam Tông với tiểu thừa ngày nay.

Còn về Thần Tú thì Hoằng Nhẫn đã trao cho cái Áo Cà Sa!! Cho nên thuộc về Bắc Tông là Đại Thừa. Điều này là sự thực, bởi tượng trời khiến nên; Chính vì Thần Tú có áo cà sa nên mới có thể (trải ra) dựng Chùa và có Tàng Kinh Các được, bởi Thần Tú là uyên bác về kinh kệ nói chung. Về phần Huệ Năng thì không có áo cà sa nên từ lý đấy mà không dựng Chùa được, chỉ ở Tịnh Xá mà thôi. Và vốn là vô sở trụ cho nên chỉ cần một Bình Bát đi khất thực, đến đâu, nghỉ tịnh xá đó, mai lại lên đường vậy.

Hoằng Nhẫn đã chia cho hai đồ đệ hai di bảo đó. Thế cho nên cả hai phái mới có thể tồn tại và phát triển mãi đến ngày nay cùng thời gian cho được. Nếu không thế, ắt một trong hai phái này không thể tồn tại cho được.

Thế nhưng sự việc rắc rối ở chỗ; Vậy thì ngày trước, Thần Tú rượt theo Huệ Năng để làm gì, là vì cớ gì?! Và Huệ Năng đã làm mất bảo vật nào trong cuộc truy đuổi đó mới được chứ!?

Vậy ta xét “áo cà sa” và “bình bát” là hai di bảo truyền đời của Phật rồi. Nếu thế thì vật di bảo thứ 3 cho đủ được gọi là “tam bảo” truyền đời nối nghiệp tổ đó là di vật gì? Tôi khẳng định di bảo đó chính là “cuốn Kinh” của chính Phật Thích Ca!! Một cuốn Kinh mà Phật đã viết bằng chính tay mình!!!

Ta cứ hình dung như sau; Trong những tháng ngày còn bôn ba đi tìm đạo. Phật Thích Ca chỉ có 3 vật trên người thôi. Đó chính là chiếc áo cà sa, bình bát và 1 cuốn “nhật ký” để ghi chép những gì phải “lưu ký” nữa! Hoằng Nhẫn trong ngày đó đã trao luôn “cuốn kinh” này cho Huệ Năng để làm di bảo truyền đời của vị tổ kế tiếp. Chính vì điều này, khiến nên Thần Tú mới truy đuổi Huệ Năng với mục đích để lấy kinh mà thôi. Chứ Thần Tú không có ý đòi lại ngôi lục tổ bao giờ cả.

Ta xét thấy; Bởi Huệ Năng đâu có biết chữ đâu! Vậy thì lấy cuốn Kinh đó mà làm gì cho được!! Và Thần Tú mới là người cần kinh, nên buộc phải truy đuổi…

Và ta lại thấy; Chính vì Huệ Năng không biết chữ. Thế cho nên trong cuộc trốn chạy đó; Ông đã quý cái bình bát hơn là cuốn kinh rồi vậy (tâm lý chung của những ai không biết chữ). Và điều tất phải đến là Huệ Năng đã làm lạc mất “cuốn kinh” đó đi rồi!!! một trong 3 bảo pháp của Phật truyền đời. Cũng chính vì thế khiến nên không có vị tổ đời thứ 7 cho được.

Cho nên khi mất đi. Lục tổ Huệ Năng đã nguyện biến thành chim Đại Bàng để bay đi tìm kinh bị thất lạc do mình gây ra. Chỉ một chi tiết này thôi, ta sẽ hiểu ngay tại sao…; Trong Tây Du Ký, thầy trò Tam Tạng khi vừa thỉnh Kinh ra thì gặp phải đại bàng (tượng của huệ năng) chụp bao kinh mà giũ ra rồi vậy. Và đại bàng thấy toàn là giấy trắng nên bay đi mất. Mấy ai trong chúng ta đọc và xem tác phẩm này mà hiểu ý trong đó là Huệ Năng đang đi tìm kinh thất lạc hay không? Chắc chắn là không đủ biết, để hiểu ý đó rồi vậy.

…Trong năm 1998, khi tôi đang trên đường bôn ba ngoài đảo vắng… Bất chợt nghe đài BBC tuyên bố qua chiếc radio: Năm 2000, nước Anh sẽ tổ chức bán đấu giá tại Luân Đôn 2 hiện vật. Một là đẳng thức bí mật của Einstein. Và hai là “Cuốn Kinh” của Phật Thích Ca được chép bằng chữ viết tay của Người! Cuốn Kinh này đã bị thất lạc và chưa một ai được biết đến!! Một người đã tìm thấy bị vùi sâu trong tuyết từ hang ngàn năm qua rồi!!! Trong buổi công bố thông tin đó, họ cũng đã trưng ra hai trang của cuốn kinh đó làm bằng chứng cho sự thật đấy!

Ngay lúc đó, tôi khẳng định những suy luận của tôi về bảo vật thất lạc này của Phật là hoàn toàn chính xác. Sau đó, tôi lại mải bôn ba nên không biết được thông tin gì về cuộc đấu giá trong năm 2000 tại Luân Đôn nữa. Tuy nhiên tôi biết; Bằng bất cứ giá nào, Hiệp hội Phật Giáo toàn cầu phải “Chuộc Kinh” cho bằng được. Tuyệt đối không có thể để cho thiên hạ mang di bảo thất lạc của giáo phái ra bán đấu giá, trước bàn dân thiên hạ cho được.

Kết luận bài viết này. Tôi chỉ lưu ý đến trọng tâm của bài viết này cùng các bạn là;

Mô hình tự nhiên của Tạo Hóa đã mặc định Phật giáo đã tiềm ẩn ý trong đời “Tổ Thứ 6” là bị thất lạc chân Kinh của Người rồi. Vậy có ai đã nhìn thấy sự mô phỏng từ Phật Thích Ca đó là phản ảnh từ sự kiện: Trong đời “Hùng Vương Thứ 6”. Dân Tộc Việt đã bị thất lạc mất Kinh Dịch rồi vậy!!!

Đó là một cáo chứng của Tạo Hóa trong thiên thư.

Vì thế cho nên chúng ta phải “Khảo Kinh”. Và cũng chỉ có dân tộc Kinh mới đủ khả năng này mà thôi. Vì Tạo Hóa đã mặc định điều đó cho dân tộc này sẵn rồi. Và tôi thuộc dân tộc này, cho nên chúng ta đang cùng khảo kinh trên trang này vậy. Và tiếp tục khảo Kinh Dịch, một di bảo của giống nòi. Để dùng những giá trị tìm ẩn trong đó mà thiết kế và xây dựng lại một mô hình vũ trụ tương lai cho nhân loại.

Phàm, hễ không phải là chủ nhân của Kinh Dịch; Ắt tuyệt đối không có thể biết cũng như hiểu được những giá trị gì tiềm ẩn trong đó cho được.

Đó là Đạo Lý.

Và thế nhân chúng ta cũng quen gọi là Chân Lý.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét