66 - THIÊN HOA HỘI!
Tưởng, trước khi nhắc lại kỳ thi Thiên Hoa Hội. Tôi cũng lưu ý thêm cùng các bạn là: Thật ra trong kỳ Pháp Hoa Hội thì trước đó là phải nhịn ăn 49 ngày để bày binh bố trận rồi. Thế nhưng sau đó ta mới có thể phát hiện được ra những giá trị của sách lược cũ là không khả thi!? Những học thuật từ Kinh Dịch, Kỳ Môn, Bát quái v.v… nói chung. Chỉ có thể dụng được đối với thế nhân mà thôi (nhất là hệ thống Nhị Thập Bát Tú). Tất nhiên những sai sót trong đó cũng không ai biết, vì không thể lĩnh hội tới cho nổi. Cho nên khi ta áp dụng vào cõi Trời là không có giá trị gì hết cả!
Sau 49 ngày đó, buộc tôi phải dội ngược trở ra. Tôi chỉ có khoảng thời gian 1 tháng để dưỡng sức và kiểm tra lại toàn bộ học thuật cũng như bố trí lại (kiểm điểm binh mã). Rồi còn tiếp tục thâm nhập 49 ngày lần thứ hai vào thế giới đó mà thi thố nữa. Vị chi, 3 kỳ thì tôi nhất thiết phải thực hiện 6 lần nhịn 49 ngày như thế cả thảy (đủ lục cõi). Chỉ tính riêng hai kỳ cuối liên tiếp này thôi. Tôi phải thực hiện 4 lần như thế mới đủ. Bởi một lần là hết 2 tháng rồi. Nghỉ 1 tháng để hồi sức mà tiếp tục lâm trận ứng thí. Như thế, cứ mỗi lần là xong một Mùa. Trung bình, 1 năm là 4 mùa có 360 ngày. Tôi vì tìm lẽ công lý mà quyết tìm cho ra những uẩn khúc của Đạo, đã phải nhịn ăn hết 200 ngày để dự thi trong thiên trường rồi vậy (thực tế là nhịn tương đương 240 ngày đấy). Quỷ Thần ngày đó cũng phải kinh hãi, duy chỉ có con người là xem thường trong sự u minh và đố kỵ chung mà thôi. Thế nên mới có câu Pháp Luân Thường Chuyển. Điều này có nghĩa là phải luân chuyển Pháp đó trong cả 4 Mùa của một Năm. Sao có chỗ cho cái gọi là .... .... .... lạm danh Pháp nhà Phật mà gây rối giữa chợ đời như thế cho được.
Các bạn cứ tạm biết qua như thế nhé. Chúng ta tiếp tục vào đề thôi:
Trong một lần, tôi đang ngao du ngoạn cảnh thiên trường trong trạng thái tham thiền nhập định… Tôi vẫn không hiểu Tạo Hóa lá lay làm sao, khiến tôi lạc vào hội hoa đăng mà trời đất đã giăng sẵn lúc nào không hay biết!? Do đó bài thi mới có câu mở đầu là…; “Lạc giữa muôn trùng Hội Hoa Đăng!”. Các bạn cũng thấy rằng kỳ 1 thì giải bằng 1 bài thi cho thượng nguyên. Kỳ 2 thì phải 2 bài là trung nguyên. Tất nhiên kỳ 3 này cũng phải đến 3 bài mới giải nổi được cuộc thế của hạ nguyên cuối cùng này.
Ta phải biết Trời đất mở Hội Hoa Đăng này, vốn ý là cho Thần Tiên khắp lục cõi dự lãm và “bình Hoa xem danh Hoa nào là Hoa Hậu!”. Ban đầu, ý Tạo Hóa chỉ đơn thuần có thế thôi. Cứ tưởng bở cho những gã quen tính lãng du, ngạo mạn như tôi chen chân mà học đòi dự lãm theo tục thói lúc nhàn rỗi. Nào ai ngờ được đó lại chính là cái bẫy rập của Thợ Tạo giăng ra như thế!
Cho nên kẻ mù bẩm sinh như tôi mới đua đòi mà “múa rìu trước mắt Thợ Tạo” như sau:
THIÊN HOA HỘI !
(KỳIII ; Tam nguyên)
Lạc giữa muôn trùng Hội Hoa Đăng
Mỗi mùa một vẻ hàm phong hằng
Mai lan cúc lựu phong ngôi hậu
Cầm kỳ thi họa đủ gió trăng.
…
Ở đây tôi không bàn những ý mà các bạn đã biết như Mai hòa tiếng Cầm của mùa Xuân mà khởi nhịp. Lan thì bày Kỳ thế của Mùa Đông cùng chung cuộc. Cúc vận ý Thơ cho thi sĩ thả hồn vào Thu cõi. Và sắc Lựu với nét Họa của trời Hạ, là gam màu điểm tô cho bức tranh của tạo hóa. Tùy theo đặc tính của bốn mùa trong đó mà hòa nhịp theo xuất xử cho đúng thời dụng. Mà tôi chỉ bàn đến cái ý tiềm ẩn của Hoa Hậu trong đó như sau: Như đã nói một năm có tất cả 6 khí, 24 tiết và 72 hậu trong đó. Chia ra một tiết có 3 hậu. Vậy một hậu là 5 ngày.
Thường thường thì vào đúng ngày thứ nhất trong một Hậu của 5 ngày đó vừa đến. Nếu Hoa nào nở đúng lúc mà khí, tiết và hậu đó chuyển giao đến thì được gọi là Hoa Hậu. Bởi vì Hoa này khai hoa nở nhụy chỉ chọn đúng vào thời điểm đó mà thôi. Nên mới gọi là Hoa chủ của Hậu đó, đồng thời cũng được bầu chọn là Chúa của muôn Hoa khác. Bằng như Hoa nào nở vào ngày thứ 2 và thứ 3 thì gọi là Á Hậu. Kỳ dư mà nở vào những ngày cuối của Hậu đó thì chỉ là Hoa tạp mà thôi. Tuy có sắc, hương nhưng vốn chỉ là hữu danh mà không có thực. Và đó cũng là lý do tại sao người đời cứ gọi là Hoa Hậu mà ít tai hiểu thấu đến nguyên lý này. Các nhà tổ chức thi Hoa Hậu lưu ý nguyên lý này mà xem xét Hoa Hậu nhé. Chớ có mà bình chọn Hoa Hậu lung tung mà không biết nguyên lý nền tảng nào của tự nhiên để mà dựa vào xem xét tiêu chí để bình Hậu đấy. Bởi muôn hoa là đều có hương sắc như nhau cả, nào biết phân hơn kém ở nét phô bày ra bên ngoài cho được. Nhất định phải dựa vào mô hình tiềm ẩn tự nhiên mà tạo hóa đã chỉ định giá trị của Hoa Hậu mới được. Không khéo chỉ được nước diễu hề cho thiên hạ bên cạnh ngọn lửa có tên scandal mà thôi.
Trên nền móng của tư duy, lại còn bày đặt thiết kế rắc rối như thế này để đủ được gọi là nghệ thuật nữa: Sở dĩ Hoa Mai được liệt vào hàng cao quý nhất để đại diện cho đầu năm mới là bởi đạt được 5 tiêu chí như:
1. Thân vốn mảnh mai, nhưng không cuốn theo chiều gió.
2. Không gặp thời không trổ hoa.
3. Nếu đã trổ, rũ bỏ tất cả lá cũ trên thân không giữ lại gì.
4. Một khi trổ thì phát tiết hết một lượt, không lác đác trước sau.
5. U hương!
Đó là 5 đặc tính có thể được liệt vào hạng dị mộc mà không một loài Hoa nào có được để xét tiêu chí đề cử. Bởi 5 điều kiện đó tượng trưng cho thấp thì kẻ sĩ, quân tử. Cao là hàng Thánh nhân khác thân phàm, Thần Tiên thoát tục cốt khi:
1. Thân tuy là cổ thụ nhưng cành lá lại rất mảnh mai. Phàm, thời thế khi gặp trái gió trở trời gây bão tố. Ắt thân cổ thụ phải gãy đổ, phận mảnh mai phải ngã rạp. Khi không gặp Thời, thân Mai không vì thế mà gãy đổ hay phải chịu cuốn theo thời thế mà xu hướng ra cuối lòn.
2. Mà hễ đã không gặp thời, chấp nhận thân phận chìm đắm, khẳng khiu trong giá lạnh. Nhất định không chịu trổ tinh hoa ra bên ngoài để mà khoe sắc cùng thế nhân làm gì cả.
3. Bằng như một khi đắc thời thì rũ bỏ tất cả mọi vặt vãnh oán thù cũ trong tâm mà không màng lưu giữ lại hay nhắc đến làm gì.
4. Đồng thời một khi đã trổ tinh hoa với đời. Tất phải phát tiết toàn bộ tinh hoa ra hết cả một lượt mà lưu danh sử sách muôn đời. Không hề có chuyện lác đác cái trước, cái sau như thói thường của muôn loài bao giờ.
5. Và đặc tính cuối cùng đó chính là “U Hương”!!! Chà chà…, chỉ xét mỗi đặc tính này cũng đã đủ hết bút mực rồi đây. Vì Hoa Mai vốn không có mùi hương như các loài hoa khác. Thế nhưng đặc tính hương của Hoa Mai lại vốn là một loại hương tiềm ẩn rất kín đáo, rất khó mà nắm bắt cho được!
Ví dụ: Khi ta ngồi trầm tư một mình trong đêm, chờ thời khắc giao thừa bên cạnh nhánh Mai. Bất giác, ta bắt gặp hồ như có mùi hương rất lạ quanh quất đâu đây!? Ý hương quyện nét thanh cao với hương trầm như có, như không…, thoảng qua rất khẽ!? Ý thức cho ta biết chắc đó chính là hương của Hoa Mai chứ không hề là mùi hương của bất kỳ một loài Hoa nào khác được. Thế nhưng khi ta kề mũi lại gần cánh hoa mà tìm cũng không thấy mùi hương ấy ở đâu cả!! Có cố công dò tìm đến mấy cũng không cách gì bắt gặp cho được nữa. Chán, rồi quên đi… Bất chợt, một lúc nào đó…, mùi hương Hoa Mai lại dường như phảng phất một cách rất đặc trưng và phiêu diêu lạ thường!!! Thế nên mới gọi đặc tính riêng loài hương đó của hoa mai là U Hương.
Và đặc tính này đã được sánh với những bậc Thần Thiên thoát tục rồi vậy. Không phải ngẫu nhiên mà Hoa Mai được chọn làm Danh Hoa đứng đầu cho năm mới bao giờ cả. Đó cũng là những gì mà Nguyễn Du tức khí thoát ra như: “Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa” vậy. Kẻ ngông cỡ như Thánh Quát cũng đành phải thốt lên: “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”!!!
Để các bạn không cho tôi là kẻ chỉ được nước tán quá lên như thế thôi. Tôi lại phải đơn cử một điển hình nữa. Cũng từ trong bài thi Thiên Hoa Hội này là: Hoa Sen của Nhà Phật! Chúng ta lại tiếp tục tán từa tựa như Hoa Mai tiếp nhé. Lưu ý, chớ có nghĩ là photocoppy từ bản sao của Hoa Mai. Mà là đặc tính riêng, đồng thời cũng là 5 tiêu chí làm nguyên lý của nghệ thuật nơi đỉnh cao của tư tưởng mà ra cả.
Vậy sở dĩ Hoa Sen được liệt vào hàng cao quý để tượng trưng cho Nhà Phật là cũng sở đắc được 5 tiêu chí mà không có bất kỳ một loài hoa nào đạt tới được như:
1. Gần bùn mà không nhiễm mùi bùn.
2. Tuy có chung một gốc, nhưng Hoa và lá tách riêng từ dưới mặt đất.
3. Ong bướm không bu đậu.
4. Tính nhân quả đồng thời.
5. Người đời không dùng để trang điểm.
Đó là lý do tại sao Hoa Sen lại được chọn và biệt riêng cho nhà Phật. Ví dụ:
1. Tiêu chí thứ nhất thì chúng ta đã quen nghe là gần bùn mà không hôi tanh. Điều này được tượng trưng cho những bậc theo đạo pháp nhà Phật. Cho dù cùng sống chung với thế nhân hàng ngày mà vẫn không nhiễm những thói vui tục lụy mà gây nên lạc đạo đi được. Tuy tưởng như hòa cùng dòng đời ngàu đục vậy, thế nhưng đạo hạnh tuyệt nhiên vẫn trong biếc như mắt Phật (dù có uẩn nét u uất).
2. Tuy rằng Chùa nào cũng đọc tụng chung một tạng Kinh Phật. Cũng đồng thờ Phật, cùng một giáo pháp như nhau cả. Thế nhưng tư tưởng, quan điểm lẫn hành vi, đạo hạnh của Trụ Trì lẫn Phật tử lại hoàn toàn có khác biệt với Chùa khác, phật tử khác!
3. Xét tiêu chí thứ 3 này là nói lên sự nhân quả đồng thời. Với ý này thì các bạn đã hiểu, tôi không bàn đến. Chỉ bàn nghĩa đen tưởng chừng rất đơn giản của nó mà không ai màng biết đến là; Các loài Hoa quả khác. Khi trổ hoa, tàn đi rồi mới có thể kết quả được. Lại phải chờ cho quả lớn lên mới hình thành Hạt (nhân) ở bên trong. Thế nhưng ta xét thấy Hoa Sen vừa mới nở Hoa là lập tức có Hạt ngay trong nhụy hoa đó đồng thời ngay rồi! Và trời cũng khiến nên gọi đó là “Gương”!!! Thế nhưng người đời cứ gọi một cách vô thức chung về cái gương soi tính nhân quả đồng thời của hoa sen đấy mà không lĩnh hội nổi được.
4. Về Hoa Sen thì lạ một điều là ong bướm không bu đậu để hút nhụy hoa bao giờ cả! Ẩn ý này thì có nghĩa là nơi đất Phật dựng Chùa. Nam Nữ, trai gái không dám bén mảng đến để nghêu ngao câu ca…, “ong bướm vờn bên hoa…” bao giờ.
5. Cuối cùng là người đời không dùng để trang điểm... “!?”.
Thế nhưng…; Xã hội hôm nay. Các bạn tìm xem những ẩn ý trong Hoa Sen của Nhà Phật có còn không? Hay đã lụy nhiễm đầy thói tục mà thất lạc hết đi cả rồi!? Ta cứ việc dò nơi không chữ theo Sen Ý, mà Nhà Phật đã tiềm ẩn để ám chỉ Phật tính thực sự trong đó xem. Hiện nay ý đạo có còn hiện diện quanh đời nữa hay không. Hay đã mạt pháp từ bao giờ rồi mà thế nhân còn chưa có thể biết đến cho nổi. Ví như hiện nay Chùa mà thế nhân ào ào kéo đến, tất phải kéo theo ong bướm bu đậu rồi. Lời ong, tiếng ve ắt lẫn lộn mà nổi lên. Từ đó tất sẽ sinh ra thi nhau trang điểm mà cạnh tranh, trang hoàng chùa hoành tráng lên cả thôi. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến mọi phát sinh phải có rồi vậy. Bởi trong Chùa đã có nhiều vật quý vời lòng tham, gọi kẻ trộm đến. Bất hạnh thay cho kẻ lãng du, tha phương tìm đạo nào vãng lai đến sân chùa khi đấy. Các chúng phật tử ắt không khỏi rời ánh mắt nghi ngờ, dò xét bủa vây kẻ bất hạnh lạc bước vào đất Phật…
Đạo, Thật khó! Bởi một khi thế tục chen chân khắp nẻo đi về, thì đó không phải là đất Phật nữa rồi. Thôi, ta cứ tìm trong Hoa Sen mà gẫm về đạo lý hôm nay cũng đã đủ để biết đạo có còn trong ý sen hay không.
Chúng ta lại tiếp đến 4 câu cuối để kết thúc bài viết này nhé:
Sắc hương hư ảo, phục hoa thuốc
Một mai góp người buổi không chăn
Hướng dương hoa quỳnh kiền thược dược
Phân ly khôn sầu khảm hoa ngâu
(Hạ nguyên nhất vận thi)
Bất chợt lúc đó trong tôi bỗng thoáng động lòng trắc ẩn rằng: Thay vì bình Hoa như thế, chẳng qua chỉ được hương sắc thoảng qua cho đời chiêm ngưỡng trong nhất thời không thôi. Chẳng bằng ta cứ bình Hoa nào ngoài hương sắc, còn có giá trị tiềm ẩn vị thuốc trong đó nữa. Ngộ khi mai này còn đỡ đần được những kẻ sa cơ, đói lạnh trong tật bệnh có hơn không? Thế nên hai câu cuối kết thúc với sự xuất hiện của 4 Danh Hoa khác vào ngôi Hậu như Hướng Dương, Hoa Quỳnh, Thược Dược và Hoa Ngâu!
Ta xét thấy Hướng Dương đích thị là Mùa Hạ bởi cái lý dương tính kiêm cả dược tính đó. Vậy cái nghĩa đối lập đại diện cho Mùa Đông, ắt phải là Hoa Quỳnh mang âm tính đi rồi còn gì. Tuy hai danh hoa này còn đang so kè nhau về dược tính âm dương thì bất chợt phải kiềng nể đối với sự hiện diện của Hoa Thược Dược nữa! Bởi Thược Dược còn có nghĩa là đang sở hữu “chìa khóa thuốc” trong đó kia kìa!! Trong bối cảnh so kè phân chia ngôi vị Hoa Hậu như thế cùng nhau thì… Hoa Ngâu âm thầm khóc cho sự chia rẽ, phân ly đó mà ít tai ngó ngàng đến đạo lý đang còn đong đầy oan khúc nữa. Bởi duy chỉ riêng có Hoa Ngâu là rất nặng lòng cùng nước mắt chia ly của chàng Ngưu và nàng Chức, mỗi khi Thu về âm thầm trong đêm tháng 7!!!
Tuy nhiên trong bài thi đầu tiên này. Đã có bạn đọc nhìn ra được tôi đã có gửi gắm Dịch Lý trong này với các quẻ như: Quẻ Hàm, Phong, Hằng trong câu thứ 2. Bởi ý nghĩa “Mỗi mùa một vẻ hàm phong hằng” có nghĩa đơn thuần là mỗi danh Hoa, ngoài đại diện cho mỗi mùa. Còn có ẩn chứa (hàm) đầy tình gió trăng (phong và hằng), ấp ủ bên trong nét e thẹn của độ dậy thì đó nữa. Những giá trị đạo lý của trời đất này còn cất giữ (hàm), che giấu (niêm phong) thường hiện hữu (thường hằng) suốt ngàn xưa qua mãi mãi mà không mất đi được.
Lại tiếp đến bốn câu cuối với các quẻ như: Phục, Kiền, Khôn, Ly, Khảm. Với toàn ý thì Kinh Dịch khởi ở Thượng Kinh với hai quẻ Kiền Khôn, và kết thúc với hai quẻ Khảm Ly vậy. Thế nên bài thi đầu cũng kết thúc theo cùng với nguyên lý đấy nơi câu cuối.
Đó cũng chỉ là sơ ý trong rất nhiều ẩn ý còn tiềm ẩn thâm sâu trong bài thi Thiên Hoa Hội này nữa các bạn ạ! Tôi nói rồi đấy. Kỳ 1 vốn đã khó như thế để Thuần Tiêu Sương. Kỳ 2 lại càng khó hơn thế gấp nhiều lần. Vậy kỳ 3 càng không thể hình dung diễn biến sự việc cho được rồi. Tóm lại; Trời đã chấp nhận tôi đã vượt qua đủ cả 3 đợt sóng thử thách trong lãnh thiên đó. Không hề có sự lầm lẫn gì ở đây đối với Tạo Hóa bao giờ cả.
Việc đấy; Có Trời biết, Đất biết, Quỷ-Thần biết. Dĩ nhiên tôi cũng biết là như thế. Thế nhưng, từ ngày đấy cho đến nay. Thế nhân vẫn cứ không chịu như thế cơ!!!
Dù tôi có nên khóc hay nên cười. Vẫn cứ ra nước mắt thật đấy các bạn ạ!!!
.
67 - THIÊN HOA HỘI TIẾP Ý
Các bạn theo dõi thấy trong nữa đoạn đầu của bài thi Thiên Hoa Hội đó thì 4 danh hoa Mai, lan, Cúc, Lựu đã chiếm ngôi Hậu đại diện cho 4 Mùa trong đó rồi. Thế nhưng trong đoạn cuối thì tất cả đều nhường khoe hương sắc trước cái gọi là Nhân Đạo, khi đề cao dược tính tiềm ẩn trong dáng hoa.
Thế nhưng trong lúc mọi loài đang kiềng nể cái “chìa khóa thuốc” mà hoa thược dược đang sở hữu thì lại rất lấy làm lạ lùng chung trước hoa Ngâu! Bởi nét đẹp của hoa ngâu vốn lại là cái đẹp lẵng lặng, trầm mặc, sầu bi đến não nùng!! Vì nét đẹp dị thường đó chỉ thể hiện bằng cách thi nhau “rụng tơi tả” theo mưa tháng 7 Trước sân Chùa mà thôi!!! Một điều mà muôn hoa rất ám ảnh khi một mai phải rơi rụng thân hoa vì mưa gió… !!! Điều oái oăm này khiến nên trời cũng phải mượn danh của hoa để đi vào ngôi đền của thi ca với hiệu Mưa Ngâu mà lay động bao con tim phải thổn thức. Thậm chí ngay cả cán chổi trên tay của Tảo Địa Tăng, cũng phải ngập ngừng…, một khi lướt đến gần những cách ngâu rơi.
Lại chính điều này đã dẫn những tấm lòng của nhân đạo đi thẳng vào thiên đạo.
Thế nên; Khi tư duy của muôn loài đang trầm tư bên sân Chùa, chợt…; “Hốt ngộ dược vương hoa sen trắng”! Vô sắc Phật phong tiệm trong đầm”. Vì trước sân Đình, Chùa. Nơi mà hoa ngâu thường chọn làm nơi định xứ địa phương đó. Vốn lại là lãnh địa của Hoa Sen. Tượng pháp của nhà Phật còn có tên là Dược Vương… Bồ Tát nữa kia!!! Xá gì chỉ là chìa khóa thuốc mà đã gây ngơ ngác cho sự đua đòi của muôn hoa quen thói tục. Một loài hoa mà Phật đã sắc phong để ẩn ý đạo trong đó. Cái ẩn tàng sâu xa hơn của ý đạo là buộc ta phải nhìn thấu sắc tinh khiết của loài sen trắng rất hiếm nữa. Một “bạch tượng vương”… bồ tát!!!
Thế nhân chúng ta không một ai đủ để lĩnh hội cho nổi ẩn ngữ tuyệt đỉnh của Pháp Ngôn nhà Phật với: Người quan sát là ẩn ý chỉ vị trí của Quán Thế Âm! Và vật bị quan sát lại chính là là “Địa Tạng Vương”!! Kẻ tục đòi nào nếu muốn tìm đạo. Nhất định phải liễu ngộ pháp Ngôn ẩn tàng này. May ra đủ phúc, đức để mượn cái phương ngôn, tiện ngữ này của nhà phật mà đứng vào vị trí đấy, trầm tư mặc tưởng đối với thực tại đạo.
Khốn thay! Thực tế là hễ khi nghe nhắc đến một trong hai danh hiệu này thôi. Tất cả thế nhân đã cuối đầu, dập lạy hơn tế sao ngay tức khắc. Lấy đâu dám suy sâu hơn nữa cho được. Kiếp nào mới có thể mong đến việc cùng đồng nhất trong hai điều kiện đó để còn quan sát đạo mà biết thực tại cho được đây? Ta nhất thiết phải hội đủ hai điều kiện như thế đã. Hẵng nói đến chuyện quan sát vạn vật bị quan sát trong thế giới Phật Pháp để đủ bắt đầu tập nói đến hai tiếng “Khảo Kinh”.
Ấy vậy mà…, Hoa Sen trắng chỉ; “… Tiệm trong Đầm” vắng mà thôi. Dĩ nhiên khi hốt ngộ điều này, muôn loài hoa phải im bặt ngay tức thì mọi ý nghĩ nào mộng tưởng đến ngôi Hậu trong kỳ mở Hội Thiên Hoa này. Cái nghĩa tưởng chừng của “ngàn hoa” (thiên hoa) trên tiêu đề, trong sát na đã hóa thành “hoa trời” từ khi nào rồi vậy?! ( khoe “Sắc hóa Không” sắc).
Nếu xem xét dưới lăng kính quan sát của nền khoa học thì; Hễ cứ mỗi khi xuất hiện một Hạt. Ngay lập tức không - thời gian đó phải xuất hiện một “ sự khó chịu” được gọi là “Anti” liền theo để so sánh nữa! Thế nên các bạn thấy phải xuất hiện…; “Phúc âm, Hoa Huệ ngoài đồng vắng. Nhiệm mầu Chúa hằng ví Sao Sâm” như trình bày dưới đây:
Hốt ngộ dược vương hoa sen trắng!
Vô sắc Phật phong tiệm trong đầm
Phúc âm hoa huệ ngoài đồng vắng…
Mầu nhiệm Chúa hằng ví sao sâm.
Trên đây là 4 câu đầu trong bài thi thứ hai của kỳ thi Thiên Hoa Hội mà các bạn cũng đã từng biết qua rồi. Nếu như sắc trắng trong khiết của loài sen ở đất Phật được pháp hóa thành Vô Sắc! Thì màu trắng tinh khôi của cành Hoa Huệ nơi Vườn Chúa phải được phép tạo ra là Nhiệm Mầu vậy!!! Một cặp đối lập gây kinh ngạc đến sững sờ trong bức tranh trừu tượng của tạo hóa mà loài người không thể thưởng lãm tới nổi. Những điều này chỉ có triển lãm trong “hội hoa đăng” của trời đất mà thôi. Lại một lần nữa, tôi ý thức rằng; Kẻ mà còn vương đầy bụi trần trên gót tục như tôi đây. Được lạc vào hội hoa đăng này, quả là đại phúc ngàn đời mà tổ tiên giống nòi Việt tích lũy sẵn, may được thừa hưởng dư khí mà thôi. Thế nhưng sự việc ở đây mà tạo hóa đang đặt ra và đòi hỏi là phải bình cho được; Loài Hoa hoa nào mới là Hoa Hậu. Trời đất nào phải mở hội này ra chỉ để “cưỡi ngựa xem hoa” đơn giản như thế cho được?!
Ý thức thực tại lay tỉnh kẻ đang say mộng tưởng về hội hoa đăng trong tôi. Thôi chết! Thiên la địa võng đã bủa vây hết cả rồi. Tạo Hóa đã giăng bẫy rập khắp lối thiền quán mà giam chân kẻ tưởng bở trong thiên trận mất rồi vậy. Vì mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên tiềm ẩn, bất chợt hiển lộ tất cả trước mắt của tôi rồi. Bởi trước đã lầm tưởng rằng mình đi lạc vào hội hoa đăng. Đâu có thể ngờ là thiên hoa hội tụ, cốt là để trời đất bình hoa vào “Cuộc Hậu” bao giờ. Tưởng đơn giản rằng chỉ xét trong 1 hậu để chọn Hoa thôi. Cao tay hơn nữa thì 1 Tiết lại có 3 Hậu đề cử tranh hương sắc. Vậy một tháng có 2 Tiết, vị chi là 6 Hậu có Hoa Chủ. 3 tháng vào một Mùa là 18 Hoa Hậu tranh tài. Ngôi Hậu của xứ đó kiêm 18 chư hầu rồi. Vậy 1 năm trọn thì có đại diện 4 ngôi Hoa Hậu cho tất cả 72 hậu của một năm. Hoa Mai là Chúa Xuân mất rồi. Thế nhưng đấy chỉ là việc của người đời thôi. Còn việc của Trời nữa, mà trời ở đây có nghĩa là đạo rồi vậy. Và Hoa Sen xuất hiện, nhưng sự việc rắc rối xảy ra là còn có Hoa Huệ nữa! Sự việc không ngừng diễn biến phúc tạp đến độ; Đạo của tạo hóa buộc phải bình ngôi Hậu tuyệt đối, bởi ngôi Hậu chỉ có 1 mà thôi. Thế nhưng ở đây là đạo, là Chúa và Phật!!! Chết đuối cho quan điểm trung hòa của tôi đi rồi vậy, lại thêm kéo chìm đắm cả tư tưởng xuống vực sâu vô tận của ý thức luôn một thể.
Bởi vì sao lại có chuyện phải phân cao thấp giữa đạo như thế cho được!? Thế nhưng mục đích của cuộc thi Thiên Hoa Hội vốn là như thế. Có trở lui cũng không được, tiến cũng không xong nữa rồi. Suy không thấu ý của tạo hóa cho được trong lúc đấy. Trong khi quan điểm của tôi đến lúc này vẫn dung hòa giữa Chúa Jêsu và Phật Thích Ca. Hai vị vẫn là đấng sinh thành của nhân loại đấy thôi. Bởi tôi thấy rất rõ Chúa là ba ngôi, là vô cùng, là luân lý, là hòa hợp là v.v… Phật lại tam bảo, lại vô biên, lại luân hồi lại đồng nhất và những v.v… hơn nữa. Có ai đã khác gì nhau đâu. Cả hai cũng đều dùng một pháp 49 ngày đâu khác. Nếu hoa huệ nhà Chúa có 7 phép bí tích thì hoa sen của Nhà Phật cũng thể hiện 7 pháp liên hoa kia rồi! Thế nhưng hội Thiên Hoa này đòi hỏi phải phân cho bằng được giữa Hoa Sen trắng với Hoa Huệ trắng, hoa nào đắc ngôi Hoa Hậu mới được!!! Vậy ai mới là người có khả năng làm việc đấy cho được?! Không thể rồi vậy. Ta xem tiếp đoạn cuối của bài thi này như sau:
Bảy phép thất diệu ai phân đặng?
Đồng nhân tùy tụng kẻ công bình
Bĩ thái thanh minh nguyên trinh thắng
Trắng dạ bạc đầu bình tống, chiêm…
Cuối cùng là thống nhất phải tìm cho bằng được kẻ nào đủ tính công bình để xét xử vậy thôi. Với tiêu chí Hoa nào đủ những đức tính cao nhất trong Kinh Dịch như Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh sẽ thắng và đắc ngôi Hậu vậy. Thế là các bạn biết trời bắt đầu khảo đảo, hành hạ tư tưởng, vật cho ra bã… Thế nên ta xét thấy trong câu cuối khép lại với hình bóng của một kẻ thức trắng đêm, suy gẫm đến bạc cả đầu. Lục tung tất cả tinh hoa dịch lý nơi đỉnh cao nhất là thời Tống để Bình xét và Chiêm đoán mà phân cao thấp… Câu này còn ẩn ý là lại lấy điển tích thời Nhà Lý “bình Tống phạt Chiêm” để chuyển ý sang đề bài thi cuối.
Bởi vì nếu để tìm ra cho được một vị quan án đủ đức công bình tiêu biểu xưa nay để xét những cuộc chia rẽ đầy oan khốc thì có: Lịch sử của Dân tộc Do Thái trong Kinh Thánh với Salomon từng xử vụ án chia đứa bé ra làm hai cho hai bà mẹ. Ấy! Lịch sử của Dân tộc Việt Nam cũng đâu chịu nhường con cái của Chúa với Tô Hiến Thành vẫn đã từng tiếp nhận vụ án như đúc từ một khuôn của thợ tạo ra như thế đâu!? Thế cho nên các bạn lại phải theo dõi tiếp những diễn biến ẩn ý gì trong bài thi thứ 3 rồi vậy.
Trở lại xét toàn bài thứ hai này thì các bạn vẫn thấy tiềm ẩn cũng đầy quẻ Dịch trong đó như; Quẻ Phong, Tiệm, Đoài (đầm) trong câu thứ hai. Tiếp đến đối lập bên Chúa với quẻ Hằng, Chấn (Sâm). Ở đây thay vì tôi chuyển vần là Sấm thì sẽ hợp với vần Đầm ở trên kể cả lý lẫn ý và quẻ Thuần Đoài và Thuần Chấn gói trong đó. Thế nhưng tôi đã dụng câu Sâm để gần với Sao Sâm, Thương để nói lên ý chia ly, đuổi tìm nhau không bao giờ gặp. Điều đó sẽ gợi nhớ đến sự chia của ngưu lang chức nữ hay Chiến Thần Xi Vưu và Tiên Huyền Nữ thuở xưa vậy. Tuy nhiên cả hai Sao Sâm và Thương lại vốn chỉ có một mà thôi. Đó là ý riêng của chữ Sâm.
Đến khi thống nhất kiện cáo thì các quẻ kiện tụng và quan án công bình xuất hiện theo như: Quẻ Đồng nhân, Tùy, Tụng… Phải làm cho minh bạch với các quẻ Bĩ, Thái… và nguyên, trinh (hanh, lợi)… Còn có ẩn ý đến sự trinh nguyên của loài hoa trắng tinh khôi nữa.
Các bạn cũng biết Lý Thường Kiệt chỉ một đêm nghĩ kế phá giặc Tống mà sáng ra đã bạc trắng xóa cả mái đầu rồi đấy. Thú thật. Tôi đã từng rơi vào hoàn cảnh cũng như tình huống “nhất dạ bạch phát sầu” này rồi. Từ đó nên mới có thể cảm được nổi sầu thiên cổ đó cho được. Đó chính là trong kỳ thi Long Hoa Hội của mười mấy năm về trước. Khi dứt cuộc, tôi xuống núi… Bất chợt người dân chài dưới ven chân đảo trên biển, đều nhìn tôi rất kinh ngạc và thốt lên: Chắc ở trên động, Ma nhát dữ lắm hay sao mà bạc hết cả đầu nhanh vậy!? Tôi cứ ngỡ mọi người đùa vui thôi. Thế nhưng gặp ai họ cũng đều nói như thế cả!! Không khỏi ngạc nhiên, tôi mượn cái gương soi lên mái tóc xem thử. Lúc đó tôi mới ngỡ ngàng hết cả! Không ngờ quả thật là trong 49 ngày vừa qua trên động thiên thai. Không biết những lúc động não để trầm tư mặc tưởng về nẽo đạo trong thời điểm nào đó, mà tóc tôi đã nở trắng như… “hoa râm” hết cả rồi…?!
Thế nên tôi chợt thích thú trong ngỡ ngàng! Vì vẫn xem đó là những sợi tóc bạc rất hãnh diện!! Bởi nó không hóa bạc bởi từ những thói thường mà thế nhân vẫn bạc. Khi về với đời thường sau đó, bạn bè vẫn thường ngạc nhiên, hỏi đến. Tôi vẫn trả lời như đùa như thật rằng: Đâu chỉ người xưa mới có cái sầu bạch phát. Bạn bè, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Và trong đêm giao thừa đầu tiên, sau những tháng ngày bôn ba nơi đầu sóng ngọn gió và trải nghiệm Thiên cõi đó cùng Tiêu Sương. Tôi lại ngồi một mình, chờ đón thời khắc giao thừa bên nhánh mai và đón chờ luôn cả mùi U Hương đó… Tức sự:
HOA RÂM…!!!
Nhọc vắt mồ hôi ươm thân khô
Rồi để xuân về trổ hoa râm!
Mầm sống chưa nảy sao hoa nở?!
Cũng lạc phong trần mùi cố hương
Rối ngôi khôn lược, lối rẽ trái (!?)
Gốc người, hoa râm chen đen bạc
Xót thấy xuân về tay lần cội
Chiết sợi hoa rồi… ta ngắm ta…
68 - GỢI Ý CUỐI VỀ THIÊN HOA HỘI.
VẠN HẠNH THỜI LÝ CÒN TÔ HIẾN
TANG HẢI THƯƠNG ĐIỀN CUỘC XẺ ĐÔI
Hoa đèn hoa râm đêm khách lữ (trổ)
Sông nước sao cười ngạo gió trăng!?
Trở dạ biển chào muôn hoa sóng
Trên ngọn ba đào nở tinh hoa
Hoa lau phất ngọn mười hai xứ
Sấm theo trống đồng trổ hoa văn
Ký vị theo dòng tế hoa thị
Lục cõi hoa mừng Hội Hoa Đăng!!!
( Hạ nguyên tam vận thi)
---
Lời câu đầu tiên trong bài thi này, gợi ý cho ta nhớ lại một câu ca của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như; “ … Người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm…”!
Thường khi mà một lữ khách lãng du đã chong đèn suy tư trắng đêm, lặng lẽ, trầm tư với chiếc bóng của chính mình trên vách nơi viễn xứ như thế. Ắt kẻ đó đã cảm thấy mỏi gối, chồn bước phiêu lãng và muốn quay trở về cố hương rồi vậy. Nhớ lại ngày trước, ở những vùng quê hẻo lánh, người ta thường thiết kế một loại đèn dầu để chong đêm. Cây đèn này chứa một lượng dầu đủ để chong 1 đêm đến sáng là hết. Khi cạn khô dầu, trên ngọn bấc sẽ có những muội đèn vón cục lại, tỏa ra xung quanh bấc giống như những cánh hoa vậy. Và người ta gọi đó chính là Hoa đèn. Các bạn lưu ý; Chớ có lầm lẫn với loại Hoa Đăng chốn hội hè hoặc nơi cổng cao tường kín nhé! Mà Hoa đèn ở đây thường nở cùng kẻ nghèo khó nơi heo hút xa xôi và mỗi khi bình minh về với họ thôi!! Mặc dù hoa đèn nào cũng chỉ nở về đêm, thế nhưng riêng loại hoa đèn này kiêm luôn cả sự tăm tối, hỗn độn và tinh hoa của nó là sự suy tư trong cô độc!!!
Vậy với câu đầu tiên mở ra như; “Hoa đèn Hoa râm đêm khách lữ trổ”. Điều này này mô tả một lữ khách không biết đi đâu, làm gì mà suốt đêm trường, ngồi suy tư bên ngọn đèn dầu cô độc đến nỗi cả hoa đèn lẫn hoa râm như thi nhau trổ hoa như thế!?
Trên đây là tựa bài thi cuối trong kỳ thi Thiên Hoa Hội. Nếu như trong Hội Pháp Hoa chuyển ý từ điển tích Nhà Trần phá giặc Nguyên thì trong kỳ này lại là Thế cuộc của Nhà Lý. Bởi Nhà Lý là giai đoạn giải thoát cảnh nô lệ lầm than suốt 1000 năm của dân tộc Việt. Trong giai đoạn này lại có vị quan án Tô Hiến Thành từng xử việc “xẻ đôi” trong trang sử khi đấy.
Thế nên tôi mượn cái gương này trong cội nguồn văn hóa của dân tộc mà xét xử cuộc có vẻ như là chia đôi giữa Chúa và Phật trong Hội Thiên Hoa này vậy. Bởi câu “Tang hải vi thương điền” là ám chỉ đến một cuộc chia ly giữa biển đông và nương dâu. Tiềm ẩn ý sâu xa hơn nữa trong đó chính là sự chia ly của nòi giống Rồng (biển rộng) và Tiên (nương dâu). Dĩ nhiên các bạn cũng thấy có mắc xích cùng sự chia ly của Ngưu lang và Chức nữ trong này. Tổng các ý đó, vận thành bài thi cuối. Các bạn cũng không bao giờ được phép quên là: Trong bóng tối của đêm trường nô lệ khi xưa của dân tộc Việt đó. Nam – Bắc Hán cũng đã âm thầm, lén lút chia cắt non sông của dân tộc Việt mà đi đêm cùng nhau đấy.
Trước hết, ta kiểm soát lại tổng thể toàn cuộc này như sau: Ban đầu là các loài Hoa đời thường, đến cuối bài một thì xuất hiện Hoa Ngâu để dẫn vào đất Phật. Thế nên ta thấy bài thứ hai là Hoa đạo, Vậy trong bài thứ nhất là xét Hoa trong Địa Đạo, Bài hai thì là Thiên Đạo và bài cuối này lại là hoa của Nhân Đạo rồi. Bởi vì ta thấy các loài Hoa như Hoa đèn, Hoa râm, Hoa Sao (tinh hoa), Hoa Văn, Hoa Thị… là những loài hoa của tư tưởng, phát tiết tinh hoa từ tư duy tụ xứ đến từ hư không cả! Và rồi đến câu tiếp theo như;
“Sông nước sao cười ngạo gió trăng!?”.
Bởi xưa nay, thiên hạ chỉ quen thói cợt nhã tình Gió và Trăng mà thôi (thói trăng hoa). Ít ai thưởng thức được đến nét đẹp lặng hồn của ánh trăng, soi trên mặt nước mùa thu trong đêm thanh cho được. Nếu như Trăng của 4 Mùa thì hằng nga, tiên tử chỉ xuống tắm và lắng mình trên mặt nước hồ thu mà thôi. Đó chính là thời điểm mà Nàng Thơ định xứ, khiến bao thi sĩ ngẫn ngơ mất hồn hết đi cả! Thế nên Thi đi liền với Thu là do ý từ sự kiện này. Đây cũng là ý diễn tả lúc lữ khách bơi xuồng lặng lẽ trên sông trăng, giữa đêm thanh vắng. Mỗi khi mái chèo nhẹ khua thì ánh trăng trên mặt nước tan ra. Đồng thời muôn áng sao nhấp nháy ngã nghiêng trên dòng sông như cười ngạo cho tình trăng nước đó vậy!? Thiên hạ quen cười ngạo tình trăng gió, dẫn đến “cười lạm” cả vào tình của trăng nước hồ thu luôn đi rồi vậy!
Thế nhưng tiềm ẩn ý trong câu thứ hai này còn có nghĩa là: “Sông nước” còn có nghĩa là “giang hồ”! Đã thế thì “cười ngạo”…, chắc chắn phải là “tiếu ngạo” rồi vậy!! Điều này có nghĩa là tôi muốn nhắc đến tác phẩm “Tiếu Ngạo Giang Hồ” của nhà văn Kim Dung rồi!? Với tác phẩm đó, Kim Dung đã cười ngạo vào mặt tất cả những ai là kẻ (Thiền Sư) đã từng tham thiền xưa nay hết cả rồi vậy. Bởi vì trong mắt của Kim Dung đối với mọi thiền sư hay thiền giả nào bao gồm. Thì những vị đã từng chứng đắc đó, chỉ là trò hề hết cả thảy! Kim Dung đã mượn tác phẩm này để nói lên chính kiến của ông và thực tại đó.
Ta có thể thấy nội dung nói lên tất cả giang hồ kẻ sĩ, từ tiểu nhân đến quân tử. Không loại trừ kẻ trí, đến người ngu trong khắp cả thiên hạ, đều thi nhau tham thiền luyện tuyệt kỹ để xưng bá chủ. Họ không ngần ngại từ bất kỳ một thủ đoạn đê hèn nào nhất để đoạt cho bằng được ước vọng đó. Thậm chí sẵn sàng phụ tình sư đồ, cha con, chồng vợ để chiếm đoạt cho bằng được tuyệt kỹ kỳ thư. Không nằm ngoài sự ám chỉ đến tổ tiên người Trung Quốc ăn cắp Kinh Dịch của Người Việt trong lịch sử. Các thế lực, triều đại tranh giành với nhau mà âm thầm, lén lút ra sức khai thác. Thế nhưng cuối cùng thì tuyệt kỹ cao nhất đó chính là “Quỳ Hoa Bảo Điển”, chỉ dẫn thiên hạ trở thành “lại cái” hết cả mà thôi!!! Quan điểm của Kim Dung ở đây cho ta thấy ông không hiểu nổi được tại sao đỉnh cao tuyệt kỹ lại là Hoa như thế!? Trong khi Hoa chỉ thể hiện là của phận nữ nhi kia mà?! Sao xưa nay tất cả thiên hạ cứ tranh nhau cho bằng được như thế!!! Mà đã có ai đến được cảnh giới này bao giờ đâu??? Thế là Kim Dung tha hồ mà cười ngạo tất cả giang hồ xưa nay thôi vậy. Bởi Kim Dung vướng sự thấy vào cõi Tu Di nên hiện cảnh là lai cái khi nhập định tham thiền đến giới hạn này. Mà quả thật. Thế nhân cũng chưa ai tham thiền đến cảnh giới này thật!!!
Ta xét thấy khả năng tham thiền của Kim Dung đã đạt đến một trong những cảnh giới cao nhất xưa nay rồi vậy. Thế nên Kim Dung đã thấu hết toàn bộ những gì mà xưa nay lịch sử của họ từng theo đuổi đối với Kinh Dịch từng trộm cướp của “Lạc Chủ”. Kim Dung hoàn toàn có tư cách để làm nên tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ cả thảy như thế. Vì các bạn cũng hiểu được Hoa Quỳ mà Kim Dung nhắc đến đó, chính là loài Hoa Hướng Dương trong bài thi của Thiên Hoa Hội này rồi vậy. Kim Dung đã xem đấy chính là tuyệt đỉnh của bí kíp công phu đi rồi. Các bạn có thể xem lại tác phẩm này và dựa trên nền tảng những ý mà tôi đã gợi nêu ở đây. Chắc chắn các bạn sẽ thấy toàn bộ ẩn ý của Kim Dung. Chính điều này đã làm nên một tên tuổi Kim Dung, lẫy lừng khắp thế giới xưa nay vậy.
Thế nhưng trong bài thi về Thiên Hoa Hội này. Tôi xem cái cảnh giới mà Kim Dung đã từng thâm nhập vào cõi thiền đó; Chỉ đáng là cái biết của kẻ chỉ đi trong lạch, sông mà thôi. Đó chưa phải là cái thấy biết ở ngoài nơi biển cả bao giờ. Sao lại dám cả gan mà cười ngạo như thế? Bởi câu “cười ngạo gió trăng” ở đây có nghĩa là: Tình gió trăng cũng có nghĩa là Trăng Hoa. Và Hoa Quỳ trong “Quỳ Hoa Bảo Điển” đó cũng chính là Hoa Hướng Dương mà tôi đã mô tả trong cuộc thi Thiên Hoa Hội này vậy.
Tiếp đến với…;
“Sông nước sao cười ngạo gió trăng?
Trở dạ biển chào muôn hoa sóng.
Trên ngọn ba đào nở tinh Hoa”.
Kim Dung đã không hiểu thấu nổi điển tích Hà Thần và Hải Thần trong chính văn hóa của dân tộc ông nữa kia mà!!! Cái sự biết của thiên hạ, cao mấy cũng cứ mãi là một ngư ông làm khách đào nguyên trong lạch sông mà thôi, sao vội đã cười ngạo ra như thế rồi? Hãy làm ngư phủ của biển cả một lần xem sao? Lấy đấy mới có thể biết trời cao, biển rộng như thế nào cho được. Bằng không thì cứ tự cho mình là đệ nhất cả thiên hạ mà không chịu ai hết cả. Phàm một khi ra biển cả, ta mới có thể biết đến Hoa sóng cho được. Bởi vì Hoa sóng chỉ nở trên đỉnh của ngọn ba đào (đỉnh ngọn sóng), ở giữa đại dương mà thôi. Luận điểm nơi đây gợi nhắc cho ta thấy được điều gì đối với những hành giả trên bước đường tìm đạo xưa nay? Họ chỉ mong sang sông thôi. Ta thấy sang sông đã rất khó, hầu như không thể qua cho nổi được. Quan điểm chung thì lại xem biển là mê, phải lập tức quay đầu mới là bờ!!!
Đặc biệt, Câu thơ này mô tả là “Trở dạ biển…” Có nghĩa là giữa biển cả lúc không giờ! Trở dạ về sáng… đồng thời câu “trở dạ” cũng có nghĩa là mới có thể sinh nở ra được một cánh Hoa Sóng khủng khiếp nhất! Đó mới là thời điểm mà Hoa Sóng giữa đại dương phát huy tất cả tinh hoa của nó để khai hoa nở nhụy được. Mà ngọn ba đào xuất hiện giữa đêm đen ngoài biển cả đó lại chính là giữa đêm gió mưa, bão tố đang thét gào!!! Các bạn thử hình dung xem. Ta ra biển, gặp bão tố giữa đại dương mới có thể “chiêm ngưỡng” và cảm nhận được những đóa hoa sóng trên đỉnh những con sóng dữ đó, có uy lực khiếp đảm đến mức nào được.
Mà chưa đâu!? Câu thơ này là mô tả Hoa sóng nở giữa bão tố lúc nữa đêm giữa biển cả mịt mùng kìa!!! Đó chính là “rốn biển”, là nơi mà tôi từng nhắc đến. Chúng ta phải thâm nhập vào hoàn cảnh đó, hít thở trực diện cái không khí đó, để nếm trãi mùi vị thực sự của cuộc sống đó. Sau mới có thể cảm nhận mà đồng cảm thông được như thế nào giữa sự vĩ đại của tạo hóa và kiếp nhỏ nhoi mong manh của con người được.
Cuộc sống đó, hoàn toàn nằm ngoài sự hình dung của thế nhân chúng ta quanh rẻo bờ trong sông lạch này. Các bạn cứ tưởng tượng nhé; Một ngư phủ mưu sinh, câu mực (lại một màu đen mưu-sinh-tồn, tiềm ẩn khác nữa) trên một chiếc thúng mong manh, đơn độc, lẽ loi trong đêm đen giữa đại dương. Bất chợt mưa bão đến… phải dầm mưa chống chọi với bão đêm một mình. Phải tát nước cật lực sáng đêm như thế, nếu không kịp sẽ chìm thúng. Sóng dập, mưa phủ, gió giật… Sức kiệt, nằm vật lã ra giữa đêm mưa bão của đại dương mịt mùng như thế để vội lấy sức. Có đôi khi ngủ thiếp đi vì đuối sức, mặc mưa gió quay cuồng, thét gào như thế. Kiếp mưu sinh nhỏ nhoi, mong manh tựa bọt sóng trên đầu muôn ngọn sóng giữa đại dương tăm tối. Thật không bút mực nào tả cho xiết được cả.
Để rồi khi lên đỉnh động Thiên Thai hàng đêm, khi vừa bước ra từ nẻo Thiền. Tôi thường ngồi lặng trên đỉnh núi hàng giờ để dõi theo bóng đèn của kẻ câu mực giữa biển đêm dưới kia mà thắc thỏm cho thân thận làm kiếp con người của họ. Trời đêm, tất cả tinh hoa sương khí của núi, rừng, trời, biển hòa quyện làm một. Xóa nhòa tất cả mọi ranh giới của không gian lẫn thời gian đi. Ta không thể nhận ra và phân định được đâu là ranh giới giữa biển và trời được nữa. Vào thời điểm đó; Cứ mỗi khi bức màn đêm của Hóa Công vừa giăng lên… Trên sân khấu của Hóa Công đó. Những ánh đèn của người ngư phủ câu mực thúng đã hòa lẫn vào với ánh sao trên trời làm một rồi vậy. Ta không thể nào biết được đâu là sao trời và đâu là đèn ngư phủ nữa rồi! Thế nên câu “Trên ngọn ba đào nở tinh hoa” là mô tả đến hoàn cảnh này. Tinh hoa lúc này chính là Hoa sao đã đồng nhất ánh sáng giữa sao trời và ánh sáng đèn của ngư phủ chen nhau nở rộ rồi vậy. Thường hằng, mỗi đêm… từ bao ngàn năm qua. Tạo Hóa vẫn diễn mãi, biết bao tấn tuồng như thế giữa Biển - Trời - Người. Đã có được mấy ai xưa nay. Bước qua cổng đạo với chiếc vé Tham thiền để làm khán giả, ngồi xem diễn “kịch trời” trong thiên lãnh một lần trong đời như thế không?!
Tôi lại lan man mất rồi! Chúng ta hãy quay trở lại với…;
Bốn câu cuối thì tôi lấy điển tích Đinh Bộ Lĩnh để nói lên ý nghĩa của Hoa Lau phất cờ, đón và thu phục hết cả 12 sứ giả của đất trời tụ về đến. Những Sấm ngôn cũng tạo thành Hoa văn mà chạm vào Trống đồng của dân tộc Việt, đại diện cho dòng cha mà lưu lại. Cái cội rễ, cội nguồn dân tộc Việt từ cung Cấn Quỷ, Dịch chuyển sang Chấn với sấm ngữ mặc định trên trống đồng (trống sấm), và từ Đông Di chuyển đến quẻ Sơn Lôi Di tại cung Tốn như Địa Chí hiện nay!!! Đó được gọi là Di Chỉ của giống nòi Giao Chỉ mà Tạo Hóa đã ghi trong Thiên thư.
Thế nên dấu Hoa thị của tạo hóa (đại diện dòng mẹ) cũng thống nhất gạch đầu dòng mà ghi dấu kết thúc cuộc thi. Đồng thời Ký Vị đầu dòng Tế… cũng là tên của hai quẻ cuối cùng trong Kinh Dịch là Ký Tế và Vị Tế. Ta xét thấy trong bài cuối này cũng có các quẻ như: Lý, Lữ, Chấn (sấm), Ký tế, Vị tế cả thảy.
Trên đây là tôi chỉ gợi ý sơ qua một lượt như thế về cả hai bài thi Pháp Hoa và Thiên Hoa hội cùng các bạn thôi. Còn tình hình cùng những diễn biến gì đã xảy ra trong cả hai kỳ thi này thì tôi chưa kể ra cùng các bạn trên trang này được. Tôi chỉ có thể nhắc lại một câu của phật thích Ca rằng: Ta chưa nói sự thật gì về đạo hết cả! Bằng như ta nói ra sự thật về đạo. Tất cả mười phương tam thế các chư Phật, đều giật mình kinh hãi, mà té khỏi tòa sen ngay!!!
Đó chính là sự thật của Đạo. Phật còn như thế. Thế nhân chúng ta thì sẽ ra sao khi nghe tôi nói đến sự thật của đạo đây? Bởi vì tôi biết được sự thật đó không sai. Và hoàn toàn chính xác một cách tuyệt đối như lời Phật đã nói như thế về đạo!!!
Ta thử suy trở về quá khứ từ ngày tạo dựng vũ trụ xem sao… Nghe rằng khi tạo ra loài người. Chúa trời đã không mở mắt cho họ. Người cứ để như thế mà sống yên vui nơi vườn địa đàng. Bỗng nhiên hai ông bà cãi lời và lén mở được mắt ra! Sao ta không đặt câu hỏi; Thế ngày đấy, họ đã thấy những gì?!
Tôi biết chắc rằng trong ngày đầu tiên được mở sáng mắt ra đó. Họ đã thấy đạo! Và hai ông bà đã không dám nhìn thẳng vào sự thật nơi đỉnh cao của đạo đó, lại nhắm mắt lại. Quay lưng!!! Vì thế nên Chúa Trời đã đuổi loài người ra khỏi vườn địa đàng!!! Bởi tại bản tính của loài người chỉ mong đạo sẽ là sự cực lạc không thôi. Họ không chịu nhớ đến hai chữ khổ hạnh nữa. Thế nên khi đã thấy những sự khổ đau ê chề của đạo là họ không dám nhìn trực diện vào đấy. Cứ muốn khai thiên nhãn, khi khai được rồi thì lại nhắm mắt lại mà không dám gánh vác lấy trách nhiệm lên vai. Nếu như ai đó khai thiên nhãn mà chỉ thấy có sự an lạc thì đó chưa phải là sự thật của đạo bao giờ cả! Bởi Tạo Hóa vốn là toàn năng. Chính vì thế nên Tạo Hóa ngoài sự sung sướng còn phải kiêm luôn cả nỗi khổ đau vĩ đại nữa. Có như thế mới được gọi là toàn năng, và đó cũng chính là bản tính của Tạo Hóa. Thế nên kẻ đi đầu khai phá trên con đường đạo. Ắt phải gánh những cái gánh nặng mà hầu như sức của con người là không thể kham cho nổi được rồi vậy.
Thế nhân lại không chịu khổ đau! Vậy chỉ nên biết đủ về đạo thôi. Chớ nên bước sâu hơn vào thật đạo của Tạo Hóa cao cả muôn đời nhé. Không thể kham nổi gánh đạo bao giờ đâu các bạn ạ. Phàm, những vị nào vẫn còn đang ra vẻ giảng giải để tranh đạo về mình là đúng. Kẻ đó chưa biết gì về đạo cả.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét