Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Ngũ hành cục luận (minhgiac)


hôm nay tôi xin được viết vaid dòng về ngũ hành cục luận tính cách. thực tế trong tử vi cục số rất qun trọng như các bạn đã biết. dùng cục số mới xác định được ngội vị chủ đế tử vi, sau đó mới an bài 14 chính tinh cùng cả trăm sao lớn nhỏ khác mà lập thành lá số. cục số cũng để xác định thời gian, liên hạn cho đại vận, rồi từ cục số ta mới có cái mà khởi vòng trường sinh. phải nói là cục số vô cùng quan trọng tử vi vậy. còn lý do tại sao người ta dùng ngũ hành nạp âm tháng an mệnh có lẽ vẫn là một điều bí ẩn. chúng ta sẽ chở lại vấn đề đó sau. còn bài viết này tôi muốn viết về ngũ hành cục và phương hướng đối nhân xử thế tính cách của con người.

tại sao cục số nó lại chủ về phần nhân hòa? vì lẽ nó được dụng hóa tại nơi an mệnh, nó được hợp hóa giữa thiên can và địa chi của cung an mệnh hóa hóa hợp mà thành nạp âm ngũ hành. người xưa nói trời đất giao hòa mà con người hay vạn vật chúng sinh mới có thể sinh sôi phát triển được. thiên can thuộc về yếu tố thiên, đại chi thược yếu tố địa và nạp âm ngũ hành chính là yếu tố nhân.
như mọi người đã biết ngũ hành nạp âm có có 5 loại là thủy nhị cục, mộc tam cục, kim tứ cục, hỏa lục cục. còn vì sao lại lấy từ nhị đến lục cục mà không lấy các số cục khác. thì gần đây sách tứ hóa phái có giải thích số qua giữa vào các con số hà đồ lạc thư. đúng sai chưa bàn thực hư chưa nói mà nây xin được luận về ngũ hành cục.

+ thủy nhị cục mang hành thủy hành thủy là một hành chủ về tư duy trí tệu, có như cầu giao tiếp và biện luận cao. nên hành thủy là người luôn có cách ứng xử tỏ ra tri thức, đứng đắn đoàn hoàng, ưa thích suy tư lý luận, người hành thủy có thân hình thanh mảnh, hoặc thể rõ một thái độ trí thức. có trí tệu tốt, cơ biến tốt, lý luận và biện hộ tốt và cũng thích được thể hiện ngôn ngữ. nên cách sử sự của người thủy cục thường sẽ có chiều hướng dung hòa, đôi lúc mềm dẻo, đôi lúc ồ ạt. chính về thế thủy cục cũng chủ về thị phi khẩu thiệt. thường thì có nước da ngám đen, đen ròn. thích hợp các các ngành nghin cứu, lý luận, biện luận, lưu chuyển. người hành thủy cũng khá nhạy cảm, dễ bị thụ động trước các tinhg huống bất ngờ, nhưng là những người có sự chịu đựng, nhất là sự khổ sở tốt.

+ tam mộc cục chủ về ẩn trọng là một hành chủ về nhu cầu tôn trọng. người có mộc cục lại thể một dạng đạo lý, hay đưa các lý luận vè đạo đức nhân cách, sống hoài cổ, hoài niệm, rất nội tâm, trầm tính. họ sống và đối sử hòa nhã dản dị, dựa trên lý tưởng và khôn phép của đạo đức. và có cái tôi, sĩ diện rất cao. với mong muốn được tôn trọng, thậm trị có chút cực đoan của, thái quá. nên trong cách hành xử luôn hoạc bị tách lập giữa một xã hội xôn sao và nhộn nhịp. họ sống với đời sống mạc niệm. khô cứng, dễ bị kích động, dễ bị phấn kích khi gặp phải đối tượng hay tư tưởng khác họ. họ có quan điểm và lập trường sống rất rõ dàng minh bạch. có hình dáng xanh ốm, lên ưa thích với các nghề nghiệp tự do, tự làm chủ, hoặc liên quan tới tôn giáo, đạo lý và lịch sử.

+hỏa lục cục chủ được mất có tính chất là nhu cầu thành tích. người hỏa cục dường như có tham vọng lớn, khát khao những thứ họ muốn rất mãnh liệt. họ có nhiều nhu cầu và sở thích khác nhau, ham muốn công danh, ham muốn quyền lực, thích được thể hiện, được oai phong. thường có bản năng hoặc thích làm lãnh đạo, chỉ huy. không ưa thích sự áp đặt, hay dưới trướng bất cứ ai. nói như vậy không có nghĩa là các ngũ hành cục khác không thế này mà nó được lấp liếng, che đậy, ngấm ngầm. chứ không thô kệch và lỗ liệu như hỏa cục. hỏa cục có tính ganh đua rất cao, dĩ thành dĩ bại hối. thích gì thì làm cho bằng được, mang một biểu hiện rất hùng hổ, nhanh nhẹn trước người khác và có thể không ngần ngại những mưu đồ thậm trí là thủ đoạn để được thỏa mãn. sự háo thắng thua được mất, thành tích của mình. có thân hình sắc diện hồng hào ưa cách ngành khai phá, đi đầu, như đầu cơ, cơ khí, quặng, mỏ.

+ thổ ngũ cục đây là hành cẩn trọng nhất, che dấu giỏi nhất và có nhiều ham muốn nhất lên nó chủ về nhu cầu sinh lý, tham vọng. người thổ cục làm việc rất cản trọng, đối sử rất tinh tế, khôn và kinh nghiệm. luôn có thái độ trung dung, hào hỏa giữa muôn người xuôi ngược. người thổ cục cũng hàm chứa nhiều ham muốn, tham vọng nhất. đối với học khó có định nghĩa nào là dduur là vừa. họ ngấm ngầm trung dung, chờ thời cơ, cơ hội rồi tiến hành chứ không như hỏa cục. người thổ cục là người khá sâu sắc, ứng sử khôn khéo và hòa đồng trước tất cả các mối quan hệ, nên nhìn vậy mà chưa chắc phải vậy. họ biết cách dấu diếm mọi thứ nó nằm sâu trong đôi mắt và lòng dạ họ, họ cũng ít cởi mở một cách trung thực hay thật hết. luôn có một con át chủ bài khi cần thiết. người thổ cục đạm, dầy mình, da pha chút vàng và đen. chủ về tác chiến lập kế hoạch, tham mưu, có tố chất làm lãnh đạo bẩm sinh!

+kim tứ cục kim tứ cục thể hiện sức mạnh bên ngoài nhưng có trường hợp nội thể sức mạnh bên trong lại yếu, thiếu ý trí. lên nó chủ về nhu cầu an toàn. bên ngoài kim tứ cục luôn thể sự quyền uy, quyết liệt, anh hùng dũng mãnh, cương nghị thậm trí là tàn nhẫn, bất nhân, vô đạo cũng như hỏa cục vậy. luôn tỏ ra thị uy, giỏi giang, hào phóng, nhanh và sắc trong tư duy cũng như hành động. nhưng vì kim tàng trong thổ nó cũng biểu hiện một mặt nữa là yếu lý trí, hèn nhát, hèn bẩn, ưa ninh, ưa nhàn hạ xấu xa. đây là một mặt lưỡng tính của kim nữa. chính về thế kim cục xứng danh thì hảo hán, quân tử anh hùng. bại danh thì tiểu nhân, bẩn thỉu đệ tiện. người tỏ ra sáng trắng, mắt và mày cao lỳ là anh hùng, khẳng khái nghĩa khí vì kim lộ ra ngoài. kẻ đậm người lùn, ra hắc ám là dạng tiểu nhân hèn hạ của kim cục. lên kim cục chính danh phù hợp với lực lượng vũ trang, quan sự, lập pháp, tư pháp, tắc chiến, kinh doanh kim khí, đầu tư bất động sản mỏ quặng. còn kim cục thứ danh thì hợp với công viên chức nhà nước, hay các việc nhàn hạ giấy tờ, thường là cấp phó.

trên là minhgiac tôi xin được viết vài dòng về ngũ hành cục và đối nhân xử thế để mọi người đọc cho vui!

minhgiac!


về thiên có thể định như sau vòng lộc tồn, bộ tử phủ vũ tướng 
_ về địa có vòng thái tếu, bộ sát phá thamè
_ vè nhân có vòng tràng sinh = cục số, bộ cơ nguyệt đồng lươngàn
_ tuần triệt là tác âm dương vì biểu lý của không gian và thời gian. do vậy có những cái cần không gian để mà phát huy, có những cái cần không gian để mà lan tỏa ( hỏa, kim)
_ đặc tính của âm dương theo nguyên lý của dịch là tý nhất dương sinh, ngọ nhất âm sinh. còn phân theo âm dương là quy luật " trời một đất 2 thành dã" tùy ý hiểận
_ luận số có thể xem địa đại của làng, quê, của tỉnh đó...vvv

Thạch trung ẩn ngọc (Cự cơ tý ngọ cách) (minhgiac)


cự môn thuộc thủy hóa khí thành âm ( nghĩa là nguồn nước nhiều tạp chất )


- khi ở tý thuộc khảm thì kết tinh lại thành đá, thành băng, nên không lưu chuyển phát huy tài năng được. gọi là kết thạch thủy

- khi cự môn tại ngọ thuộc ly bị cô lại kiệt dần, kết tủa lại. không có sự khoáng đạt suy kiệt dần mà không nan tỏa được. gọi là cô thạch thủy


Nên cự môn ở tý ngọ gọi là "thạch trung ẩn ngọc" với hàm ý là ẩn tàng không phát huy được tài năng nếu không có cách hóa giải chứ không nên hiểu cự môn là đất, đá hay ngọc gì cả.


song hao thuộc thủy miếu địa tại mão dậu và đắc địa tại tý ngọ

có ngừoi sẽ trự hỏi tại sao các sao thủy khác không thế, không thành cách thạch trung ẩn ngọc?. 

xin trả lời thủy cũng có nhiều loại thủy


- có loại ầm ầm ,giữ dằn mênh mông
- có thứ nứoc không nguồn mà có tinh khiết
- có loại âm ỉ ngấm ngầm nằm sâu trong lòng đất
- có loại thứ nước ban phước lành, lương thiện,thần tiên


còn sao thủy nào là lọai nào thì xin hãy tự phân giải. tử vi không chỉ đơn giản đặt cho sao cái tên, ngũ hành mà trong nó còn ẩn chứa nhiều nhân sinh, triết lý và nhân tình thế thái lắm. đâu có khô khan chỉ vài gạch đầu dòng mà nói hết. đâu có chỉ đọc vài quyến sách mà thông suốt.

Thứ Năm, 28 tháng 1, 2016

Vài kinh nghiệm xem lá số Tử Vi (Cự vũ tiên sinh)

NGUYÊN TẮC CĂN BẢN LÚC GIẢI LÁ SỐ
Muốn nói gì đi nữa thì khoa Tử Vi Đẩu Số của Việt Nam và Trung Hoa cổ đại cũng là bói toán vận mạng con người. Nó là một thứ Siêu Hình Học, trong ý nghĩa 110 Sao được an bài trên lá số. Nên sự chính xác của Tử Vi là tương đối? Theo tôi có lẽ chỉ 75% thôi?

Vì thế cũng làm cho người đoán giải lá số, dù tự tin, bạo nói, đôi lúc cũng phải dè dặt? Do đó phải thận trọng khi giải đoán!

Nhớ rằng có một số người nhờ xem lá số hay nhờ lấy dùm lá số, họ không thật thà đâu và cố ý cho giờ, ngày sinh sai để có ý đồ thử tài "Thầy". Vì họ nghĩ, nếu Thầy kém, dở sẽ bị mắc lỡm? Còn nếu Thầy giỏi, tài phải biết là lá số đó sai? Thật ra, rất hiếm Thầy truy hỏi khi nghi ngờ lá số nhờ coi dùm? Vì cứ nghĩ thân chủ thực thà tâm địa. Đấy là chưa nói, nhiều người ham được xem ngay, đã nói "đại" giờ, ngày, tháng sinh, mặc dù họ không biết thật! Đã bịa ra, và nghĩ đơn giản là cứ biết tuổi gì? thì "Thầy" sẽ đoán được thôi! CHO NÊN NGƯỜI XEM PHẢI KIỂM TRA:

1/ Khi cầm lá số Tử Vi của ai nhờ xem, điều đầu tiên là phải kiểm tra lại giờ, ngày, tháng, năm Dương lịch và Âm lịch có đúng không? Đa số các người nhờ xem đều không biết nguyên tắc lập lá số Tử Vi như thế nào. Có người chỉ biết ngày, tháng, giờ Âm lịch và tuổi con gì? Không nhớ là năm Canh Tí, Mậu Tí, Giáp Tí, Bính Tí hay Nhâm Tí (ví dụ như thế). Có người chỉ rõ ngày, tháng Âm lịch, còn giờ và năm lại nói bằng Dương lịch (Ví dụ: 23 tháng Giêng năm 1959, 7 giờ 15' tối). Điểm này người lập Tử Vi vô ý, thiếu thận trọng, cứ ngỡ lá số Tử Vi đó là ngày tháng Dương lịch luôn. Có nhiều người giải đoán vô tình, cứ căn cứ vào đó mà thao thao giải thích, hóa ra lầm lẫn hoặc lý giải sai, khiến người nhờ xem lại phản ứng: " - thưa không đúng mấy ". Người xem dùm.... bẽ bàng, tự ái và mất niềm tin về Tử Vi? mà sách đã dạy, Thầy đã chỉ cho? Lỗi này đâu phải ở người có lá số nhờ "coi dùm". Lỗi do người lập lá số thiếu sự cẩn trọng và người xem chủ quan đã không kiểm tra lại giờ, ngày, tháng, năm sinh Âm lịch. Đây là thường gặp không ít. Điều dặn này không thừa.

2/ Ở Việt Nam, từ ngày 1/1/ 1943 Viên Toàn Quyền Đông Dương Decoux đã ký một sắc lệnh đổi giờ 3 nước Việt, Miên, Lào. Nên những ai sinh vào giai đoạn sau 1/1/1943 cho tớij ngày 9/31945 phải đổi chậm đi một giờ. Thời đó thực tế chỉ có ở thành phố, thị xã, thị trấn mới có đồng hồ, biết mà đổi giờ theo lệnh quan Tây. Còn nhân dân địa phương cứ áng chừng, xem bóng mặt trời, chuông Chùa, chuông Nhà Thờ (vùng có người, có làng theo đạo Chúa), xe lửa kéo còi khi đi qua vùng đó, mõ điếm canh hay bóng mặt trăng mà ước đoán. Thật sự nhiều trường hợp đoán giờ sinh sai lệch, thì người xem hãy hỏi lại giờ sinh của họ cho thật kỹ. Tôi đã gặp nhiều bà mẹ già, đã đẻ nhiều con quá lâu năm, đâu nhớ chính xác, đã lẫn ngày, tháng, nhất là giiờ sinh con nọ qua con kia, làm người giải Tử Vi đi vào mê hồn trận. Có 40% - 50% người Việt sinh vào trước 1950, không biết giờ sinh là giờ nào? Người cha không trực tiếp đẻ (nhất là sinh con gái) nên không nhớ được. Mà người mẹ đau đẻ quá nên quên không để ý lúc đẻ đứa con là mấy giờ. Trước năm 1950, ở nông thôn và tỉnh lẻ không mấy nhà, mấy người có đồng hồ (thuở đó đồng hồ là vật quý, hiếm, đắt đỏ. Có khi cả phố, Huyện, hay cả làng xã mới có một nhà có đồng hồ quả lắc "cổ lỗ sĩ"). Vả lại, chỉ có các gia đình có văn hóa Nho học mới quan tâm đến "giờ sinh" để lập lá số Tử Vi. Chứ nhà có người học cao về Tây học chưa hẳn quan tâm tới giờ sinh. Rồi giờ ở Việt Nam rất lộn xộn từ 9/3/1945 đến ngày 2/9/1945. Và từ 1946 đến 1954 giờ Việt Nam cũng quá biến động, lung tung giữa các thành thị bị Tây tạm chiếm, cùng vùng "tề" thì nhanh hơn vùng kháng chiến 1 giờ. Còn giờ Nhật chiếm Đông Dương từ tháng 4 đến tháng 9/1945 đã nhanh lên hai giờ. Chi tiết này, nên xem thêm ở một số sách dạy lấy lá số Tử Vi. Giờ sinh từ 1946 đến năm 1975 (ngày 2/9) có nhiều thay đổi ở Việt Nam, nhất là dưới vĩ tuyến 17.

3/ Nếu kiểm tra thấy ngày, tháng, giờ, năm đúng rồi thì hãy để ý xem Hành của bản Mệnh thuộc gì? Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ? Xong nhớ xem đương số sinh ban ngày hay ban đêm? Và nhìn ngay cung Mệnh của đương số nằm ở vị trí nào? Cung đóng Mệnh thuộc hành gì? có hợp, khắc, sinh nhập, xuất với hành Bản Mệnh chăng? Tuổi Âm hay là tuổi Dương? có thuận lý hay nghịch lý? Cục Mệnh tương sinh hay là tương khắc? Bình hòa hay sinh nhập, sinh xuất? Khắc nhập hay là khắc xuất? Điều này rất hệ trọng đến diễn biến cuộc sống của đương số. Sinh ra ban ngày đóng Mệnh vào các cung đêm tối (từ Dậu đến Mão) thì "ưa may" và tốt hơn người sinh vào ban đêm. Vì giờ sinh thuộc Dương mà Mệnh đóng vào cung thuộc Đêm (= Âm) là hỗ tương ( hút, dính vào nhau vì đã khác cực). Còn ngược lại, đồng cực Âm hay Dương, sẽ đẩy nhau ra (chống đối). Đấy là kinh nghiệm mà nhiều người Thầy giỏi giữ bí truyền (dấu nghề). Tuy không quan trọng bằng Dương cư Dương vị và Mệnh Cục bình hòa, tương sinh (nhập, xuất). Hay Âm cư Âm vị, cũng thế. Đó là hai thế đại lợi cho lá số một cá nhân ở đời này. Nghịch lý và khắc nhập, xuất đều là xấu hay mâu thuẫn giữa nội tâm và cuộc sống! Bất hợp với thân nhân và xã hội.

4/ Xem kỹ thế đóng chốt của Tuần và Triệt ở vị trí nào? Và bộ Thái Dương, Thái Âm đóng ở cung nào? Quan trọng vô cùng. Lá số gọi là tốt thật sự phải có Âm Dương tịnh minh, đắc địa. Hoặc "phản vi kỳ cách" (Hãm địa ngộ Tuần, Triệt, Kỵ đồng cung, hoặc có Thiên Lương chính chiếu. Trong một bài sau, tôi sẽ giải thích tiếp vấn đề này
Thân chào các bạn,
Bài viết đến đây thì do bận trở về đột xuất thành ra TMT không có dịp để lấy thêm bài mới, có lẽ trong một dịp nào khác TMT sẽ liên lạc, nếu được sẽ đăng tiếp tục. Sau đây là một số kinh nghiệm trao đổi, tuy chưa liên lạc với người bạn để xem lại, nhưng TMT cũng post lên để các bạn tham khảo thêm
Thân

Phân chia âm dương
Phân theo cung (Tí Dương, Sửu Âm....) và phân theo trục Mão Dậu (từ Mão đến Dậu là Dương, từ Tuất đến Dần là Âm)
Âm phải gặp Dương, Dương phải gặp Âm thì mới có tác động mạnh (hút nhau), trái lại thì yếu (do đẩy nhau)
Phân theo cung quan trọng hơn theo trục

Vấn đề sinh khắc:
Cứ tương sinh (sinh nhập, sinh xuất) là tốt, tương khắc (khắc nhập, khắc xuất) là xấu
Trong các hành thì hành Thổ có ưu điểm hơn là cho dù bị khắc nhưng cũng đỡ hơn (ví dụ Mệnh Thổ bị cung Mộc khắc) vì khắc ít hơn. Do đó Mệnh Thổ thường có ưu thế hơn 
Dương Nam (+, + => +), Âm Nữ ( -, - => +) thuộc Dương (người Dương), đi đến cung Âm (Sửu , Mão, Tỵ....) thì ăn mạnh (nếu tốt thì tốt thêm, tốt gấp hai, xấu thì xấu hơn, xấu thì xấu gấp hai), đi đến cung Dương thì ăn yếu (tốt thì không tốt nhiều, xấu thì không xấu thêm)
Âm Nam (-, + => -), Dương Nữ (+, - => -) thuộc Âm (người Âm), đi đến cung Dương thì ăn mạnh, đi đến cung Âm thi ăn yếu hơn
Dương Nam, Âm Nữ thuộc Dương, đi đến cung Âm (từ Tuất đến Dần, ban đêm) thì ăn mạnh hơn khi đi đến cung Dương (từ Mão đến Dậu, ban ngày)
Âm Nam, Dương Nữ thuộc Âm, đi đến cung Dương thì ăn mạnh hơn đi đến cung Âm
Nguyên tắc này được vận dụng khi coi đại vận, tiểu vận, vị trí cung Mệnh.
Ví dụ người Âm Mệnh đóng tại cung Dậu (Âm) thì không ăn mạnh, nhưng cũng được gỡ phần nào do cung Dậu thuộc Dương (phân theo trục Mão Dậu)
Ví dụ Âm Nam Mệnh đóng cung Thìn thì tốt hơn cung Tuất
Hỏa và Kim thuộc Dương, Thủy và Mộc thuộc Âm. Như vậy Mệnh Thủy, người Dương (Dương Nam, Âm Nữ) thì ăn hơn người Âm (Âm Nam, Dương Nữ)

Xem đại hạn
Cung là hoàn cảnh nuôi bản Mệnh
Khi xem thi sự sinh khắc giữa hành cung và hành Mệnh quan trọng hơn chính tinh nhập hạn có hợp hay không (chỉ ảnh hưởng 30%)
Sinh khắc giữa hành cung và hành Mệnh:
Đồng hành thì ăn 100%
Sinh nhập thì được hoàn cảnh nuôi dưỡng, ăn 90%
Sinh xuất thì vất vả, phải chạy theo hoàn cảnh, nuôi dưỡng hoàn cảnh (ăn 60%)
Khắc xuất thì tuy chống đối hoàn cảnh nhưng vẫn vượt qua được (ăn 30%)
Khắc nhập thì bị hoàn cảnh chống đối không cho hoạt động (không ăn gì cả 0%)
Ngoài ra nếu trên 37 tuổi thì xét thêm tương quan giữa hành cung và hành Cục để biết thêm hoàn cảnh có tốt hay không
Chú ý: hành của cung tính toán trên hai cơ sở kết hợp: hành chính cung và hành tam hợp cục (ví dụ cung Tí hành Thủy vì chính cung là Tí hành Thủy, tam hợp Thân Tí Thìn hành Thủy, còn cung Sửu thuộc Thổ đới Kim vì cung Sửu hành Thổ, tam hợp Tỵ Dậu Sửu hành Kim. Như vậy cung Tỵ là Hỏa đới Kim, nếu Mệnh Hỏa thì ăn 70%, Mệnh Kim thì ăn 30%, cung Ngọ hành Hỏa, Mệnh Hỏa ăn 100%)
Chính tinh đắc địa nhập hạn quan trọng hơn chính tinh hợp Mệnh. Đắc mà không hợp Mệnh thì cũng hơn hãm mà hợp Mệnh
Đắc nếu hợp Mệnh thì ăn 100%, nếu không hợp thì cũng còn ăn 40%
Hãm và không hợp Mệnh thì không ăn, nếu hãm mà đồng hành thì cũng ăn vì là của mình

Hạn gặp Thiên Không thủ thì không thể làm gì (đổ vỡ)
Người chính diệu đi vào hạn VCD thì lao đao ít hơn người VCD đi vào hạn VCD
Người VCD đi vào hạn có hung tinh đắc địa độc thủ thì phát. Gặp Không Kiếp Tỵ Hợi người tuổi Tỵ Hợi thì phát mạnh, nếu Mệnh Kim thì càng ăn mạnh
Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương đi vào hạn Sát Phá Tham thì xấu (Trúc La hạn)

Xem tiểu hạn
Đại hạn tốt nếu tiểu hạn có xấu cũng hưởng 50%
Xem tiểu hạn khi xét sao thì chỉ quan trọng sao thủ trong cung
Các sao chiếu phải là sao đôi (như Khôi Việt, Quang Quí)
Sao chính chiếu quan trọng. Sao tam hợp không quan trọng
Cung nếu có Tuần, Triệt thì chiếu mạnh hơn (Triệt: câu vào, Tuần: đẩy ra), nhất là cung Vô Chính Diệu, nếu không có Tuần Triệt thì chiếu ăn 30%
Cung tiểu hạn là cung lưu Mệnh
Mệnh rơi vào cung nào thì cung đó quan trọng, dính dáng đến cung đó (ví dụ tại Tử Tức thì vấn đề con cái quan trọng)
Lưu niên đại hạn cũng quan trọng
Xem thêm cung có sao lưu Thái Tuế (ví dụ vào Phu Thê thì vợ chồng bất hòa? vào Điền Tài thì tranh chấp về Tài Sản? vào cung Tử thì đẻ con, khai sinh?)
Cần xem sinh khắc giữa hành cung và hành Mệnh để xét hoàn cảnh có nuôi dưỡng mình không?
Cần xét thêm sinh khắc giữa hành năm nhập hạn và hành Mệnh để biết tăng độ số hoặc giảm độ số (thêm hanh thông hoặc thêm trắc trở)
Trên 37 tuổi còn xét tương quan giữa hành Cục và hành sao tại cung Thân
Tiểu hạn là năm tam hợp với tuổi thông thường thì đàn bà tốt, đàn ông xấu, nếu là năm xung thì đàn bà xấu, đàn ông tốt (nhưng gặp xấu trước rồi mới tốt)
Vào năm xung lấy nhau thường dễ gặp khó khăn. Vào Năm tam hợp nếu gặp Đào Hồng Hỉ hoặc Tả Hữu Âm Dương đúng thế thì dễ lấy
Người Mệnh Âm thì ăn mạnh sao Dương hơn sao âm....
Thêm phần coi tiểu hạn
Xét tương quan sinh khắc giữa hành Chi của năm hạn và hành Mệnh
Chi và Mệnh đồng hành: bình thường
Hành Chi sinh hành Mệnh: thuận lợi, tốt
Hành Mệnh sinh hành Chi: hao tổn
Hành Mệnh khắc hành Chi: vượt qua được nhưng gian nan
Hành Chi khắc hành Mệnh: bế tắc, thất bại
Ví dụ năm Mùi (hành Thổ), Mệnh Kim ăn, Mệnh Hỏa thì hao....
Ví dụ Mệnh Mộc, năm hạn là Tỵ Dậu Sửu thì năm Dậu, xấu nhất (vì Dậu là chính Kim) còn năm Tỵ và Sửu bị nhẹ (vì Tỵ là Hỏa đới Kim, còn Sửu thì là Thổ đới Kim)
Xét sinh khắc giữa hành Can năm hạn và hành Mệnh, ví dụ tuổi Mộc đi đến năm Canh và Tân (hành Kim) thì không lợi
Nếu bị xấu khi xét cả hai mặt về Chi và về Can thì xấu nhất
Ngoài ra còn xét cung hạn với bản Mệnh....

Vấn đề an sao:
Tuổi Canh luôn có Tam Hóa liên châu nghĩa là an Khoa với Thiên Đồng, Kỵ với Thái Âm
Kình Dương và Lực Sĩ luôn luôn đồng cung

Linh tinh
Âm Dương hãm gặp Hóa Kỵ đồng cung thì lại trở thành tốt (Vân ám tường vân), Âm Dương sáng sủa gặp Kỵ thì lại xấu
Mệnh giáp Âm Dương thì không tốt, cho dù Âm Dương sáng sủa (chủ về vợ chồng xa cách, biệt ly....) vì rơi vào thế Âm Dương cách trở
Âm Dương, Khôi Việt, Hồng Đào...cần chiếu hơn thủ

Song Hao đắc địa tại Tí Ngọ, Mão Dậu (thủy triều lên xuống), đóng tại Mệnh, Quan, Di thì hợp
Đại Hao hành Hỏa, đóng tại Mão và Ngọ tốt (tiền vào như nước)
Tiểu Hao hành Thủy, đóng tại Dậu và Tí thì tốt
Đóng ngược lại thì lại không tốt

Tuổi Tỵ Hợi thì
Không Kiếp, Liêm Tham không luận
K̘ 5; gặp Tử Phủ Vũ Tướng bình hòa hoặc hãm địa, Âm Dương hãm địa

Bộ Thiên Không Đào Hoa đồng cung: chủ họa đến bất ngờ, nhanh chóng
Ví dụ: tại Di thì ra đi bất ngờ, làm gì cũng bất ngờ, tại Tật Ách thì chết bất đắc kỳ tử, chết vì đau tim bất ngờ, tại Điền thì mất nhà cửa bất ngờ, tại Tài thì vỡ nợ, bị giật tiền...., tại Quan Lộc thì quan trường gãy đổ bất ngờ, tại Tử Tức thì con cái chết bất ngờ tuổi thanh xuân, tại Nô thì vợ chồng chia tay bất ngờ, tại Huynh Đệ thì có anh chị em chết bất ngờ. Hạn gặp Không Đào thì xui xẻo tới bất ngờ, ví dụ như Không Đào tại Nô thì đề phòng chồng chết bất ngờ vì tim mạch, bạn bè chơi với nhau không bền....
Một điểm đặc biệt khi coi phu thê là cung phu thê chỉ cho ta coi hoàn cảnh khi gặp gỡ, còn khi sống chung đã thành lập gia đình thì phải coi cung Nô làm quan trọng hơn. Ví dụ như Nữ Mệnh có Đào Hoa Đế Vượng cư Nô thì chồng bay bướm... Coi ly dị khi vợ chồng đã có con thì coi cung Nô, ví dụ như Âm Dương lạc hãm cách cung và chiếu Nô thì hai đời....
Đào Hoa Thiên Không đồng cung: hoa rơi
Đào Hoa Địa Kiếp đồng cung: hoa héo
Đào Hoa thuộc Mộc, Mộc Dục thuộc Thủy, gặp nhau thi độ số gia tăng
Đào Hoa cư Dậu thì duyên phận bẽ bàng, cư Tí thì lẳng lo, cư Mão thì tốt đẹp
Đào Hoa tại Mệnh thì xấu (mê trai, gái), chiếu Mệnh mới đẹp (người khác mê mình). Gặp Thiên Không đồng cung càng xấu thêm. Đào Hoa cư Mão đẹp nhất (có duyên, lập gia đình sớm, tươi tắn...), kế đến là cư Ngọ (nhưng kỵ gặp Tử Vi đối với Nữ Mệnh). Còn tại Dậu và Tí thì xấu. Tại Dậu thì như hoa héo, là cách lấy vợ thừa, thất tiết, không đứng đắn, hoặc về già mới lập gia đình, lấy trễ. Xấu nhất là gặp Không Kiếp, kế đến gặp Linh Hỏa. Gặp Tuần Triệt ví như hoa bị ngắt. Gặp Thiên Hình Không Kiếp thì bị bề hội đồng. Đào Hoa tại Tí gọi là phiếm thủy, chủ dâm dật, đàn bà thì lãng mạn, dễ mắc vào tình ái, nếu gặp Thiên Không đồng cung thì tuy thông minh nhung đường chồng con không khá, bị chồng bỏ... Trên 50 tuổi nếu Đào Hoa thủ hạn thì cần chú ý vì dễ bị bệnh nặng, chiếu hạn thì không sao,chỉ bị bệnh mà thôi. Tử Vi cư Ngọ gặp Đào Hoa đồng cung, đối với Nữ Mệnh gọi là Đào Hoa phạm chủ, chủ dâm dật, chỉ cách lấy nhau trái luân thường đạo lý như cách thầy lấy trò, chủ lấy tớ, họ hàng lấy nhau....
Đào Hoa cư Nô thì đàn ông mới xấu (lấy tớ)


Âm Dương lạc hãm thì dễ bị lừa do thiếu sáng suốt, nhất là tại Thìn Tuất, và hơn nữa nếu Mệnh đóng tại Thìn Tuất
Âm Dương đồng cung: vợ chồng tranh quyền nhau, hạn đến thì sẽ có chuyện tranh chấp giữa vợ chồng khiến dễ đưa đến chia ly, nếu chưa có gia đình thì không thể lập gia đình trong giai đoạn này được
Âm Dương cách cung (như Nhật tại Dần, Nguyệt tại Tí) thì vợ chồng chia ly, hoặc ít gần nhau (do công vụ....)
Âm Dương Thìn Tuất lạc hãm: tuy vợ chồng cãi nhau nhưng khó bỏ nhau
Âm Dương lạc hãm chiếu hạn thì cần đề phòng bệnh về mắt (mắt đau, mắt bị mổ)
Nhật Nguyệt tranh huy ngộ Kỵ thì không tốt
Giải thế Âm Dương cách trở thì là Tam Hóa Liên châu cư ngoại địa....
Hạn gặp Âm Dương phản bối thì khó lập gia đình nhưng lại vương vấn tình cảm

Nhị hợp
Mệnh nhị hợp cung nào thì thường bận tâm lo lắng (khổ) về điều đó, mang nặng nợ về một điều gì đó
Mệnh nhị hợp Tử Tức thì lo lắng về con cái, khổ vì con cái hoặc mặc cảm trên vấn đề con cái (như không có con...)
Mệnh nhị hợp Huynh đệ thì khổ về anh em. Có Tuần nối thì anh chị em xa thì thương nhau, gần lại không hợp....
Mệnh nhị hợp Nô thì trẻ có bạn nhiều, hay chơi với bạn....
Nhị hợp với Phụ Mẫu thì con cái quan tâm cha mẹ, hoặc cha mẹ quan tâm đến con cái
Nữ Mệnh Thân nhị hợp với Phụ Mẫu thì gắn bó với cha mẹ chồng
Thân nhị hợp Nô thì thương chồng, lo cho chồng

Cung VCD
Phụ mẫu VCD thì cha mẹ thường sống lâu (xem thêm Nhật, Nguyệt)
Tật Ách VCD thì ít bệnh tật
Điền VCD thì khó giữ nhà đất bền vững, cho dù có sau giữ của như Quả Tú
Tử VCD thì khó có con, vẫn có con nhưng không nhờ được con
Huynh VCD thì không nhờ nhau
Phúc VCD thì lại tốt
Phụ Mẫu VCD thì không giúp đỡ được cho cha mẹ nhiều, hoặc cha mẹ cũng không giúp đỡ cho con nhiều
Điền VCD gặp Triệt đương đầu: ăn trong cảnh bất ngờ, náo loạn (bất thường, phản vi kỳ cách)
Nữ Mệnh VCD thì đỡ xấu hơn là Nam Mệnh VCD
Tam hợp chiếu tại cung VCD thì phải tại Tứ Mộ mới ăn, tại các cung khác thì lấy xung chiếu
Mệnh VCD, Tử Tức VCD thì xấu, cả đời không con hoặc khổ về vấn đề con
Phu Thê vô chính diệu thường lập gia đình bất ngờ

Tam Hóa, Lộc Tồn
Hóa Lộc tại Tứ Mộ thì Lộc bị chôn vùi, do đó chủ về phúc hơn là chủ về tiền tài. Hóa Lộc cư tại Tứ Mộ thì bị vùi, nhưng nếu gặp Triệt thì lại tốt, không bị chôn lấp
Hóa Lộc đóng tại Tứ Sinh thì tốt nhất, kế đến là tại Tứ Chính

Lộc Tồn Hóa Lộc đồng cung không tốt, chủ về họa đến bất ngờ do tiền tài gây ra
Lộc Tồn mang tính chất tồn đọng, chưa hẳn là tốt (như tại Tử thì chậm con, ít con, tại Phu Thê thì vợ chồng bất hòa, chiếu tốt hơn thủ (thủ bị giáp Kình Đà), hạn VCD có Lộc Tồn thủ thường không tốt
Lộc Tồn thủ Mệnh thì cố chấp, độc đoán, gia trưởng, làm theo ý mình không hỏi người khác, cô đơn....
Tam hóa liên châu cư ngoại địa, phúc tất trùng lai (không tai họa trong đời, đời ít tai họa, bệnh tật, tù tội)
Tam Hóa cư từ Dậu đến Sửu thì là mặc áo gấm đi đêm, không tốt bằng tại Dần đến Thân
Tam Hóa liên châu tại Mệnh không tốt bằng Tam Hóa thủ chiếu Mệnh, nhưng cần phải có một sao thủ tại Mệnh mới đẹp
Cũng cần chú ý đến Tam Hóa liên châu tại đại hạn

Cự Môn
Cự Môn chủ về bất đắc chí, bất mãn, thêm Phá Toái thì càng bất mãn, cần có Tuần, Triệt, Song Hao, Thiên Hình...đồng cung. Cư Thiên Di thì hay nói, hay bất mãn, không bằng lòng, không nên ra nước ngoài dễ bất mãn...Quan Lộc có Cự Môn gặp Triệt thì làm việc lớn được, việc nhỏ không được, làm trong lúc loạn ly biến động thì rất giỏi, làm thẳng thì không được nhưng làm quanh co,lắc léo, khó khăn thì lại được.Tử Tức có Cự Môn thì bất mãn về con cái
Cự Môn không gặp Tuần , Triệt , Song Hao.... thì có tài nhưng bất đắc chí


Mệnh hay Tử Tức có Quả Tú thì thường là con một bề (hoặc toàn là trai, hoặc toàn là gái)
Khốc Hư
Khốc Hư Tí Ngọ, Nữ Mệnh thì tính tình mau mắn, nhanh lẹ, nói nhiều
Mệnh Khốc Hư Tí Ngọ Mão Dậu thì nói mau lẹ, làm mau lẹ, đời gặp may mắn
Khoa gặp Khốc Hư thì học hành nhanh
Khốc Hư hãm tại Tật thì bị ho, ho lao
Hư tại Mệnh thì hay ho, mắc bệnh phổi

VỊ TRÍ CUNG THÂN
Thân cư cung nào thì thông thường dễ khổ thân về cung đó, phải lo lắng về điều đó. Thân cư cung nào thi cuộc sống gắn liền với cung đó.
Thân cư Mệnh: không được thừa hưởng di sản cha mẹ để lại. Tính tình cương quyet, không chịu khuất phục trước người khác. Cha mẹ đẻ ra người con có Thân cư Mệnh là dấu hiệu phúc đức bị suy tàn.
Thân cư Tài: khổ vì tiền bạc nghĩa là phải lo lắng về tiền bạc, cung Tài tốt thì cũng khổ, cung Tài xấu thì càng khổ hơn.
Thân cư Di: sống ngoài đường hơn trong nhà, hay phải xa nhà hoặc tuổi nhỏ hay rong chơi ngoài đường, không hay ở nhà. Ly hương.
Thân cư Quan thì bôn ba vật lộn kiếm sống, vợ chồng góp gao thổi cơm chung (cả hai cùng nhau lo về kinh tế), nữ Mệnh dễ hai đời chồng nếu chồng về kinh tế yếu, trừ khi ly hương thì có khả năng giải được
Thân cư Phối: sống nhờ vợ hoặc chồng, vợ hoặc chồng chỉ lo ăn không ngồi rồi, hoặc rổ rá chắp lại, hoặc phải lụy vì chồng vợ, hoặc bất mãn vợ chồng, hoặc hai đời chồng. Nếu cả hai vợ chồng đều Thân cư Phu Thê thì lại sống lâu bền.
Thân cư Phúc: thì đối phó mặc theo sự may hay rủi tùy theo cung Phúc tốt hay xấu.

Thái Tuế
Thái Tuế thủ Mệnh thì tự hào, hãnh diện về bản thân, làm nghề liên quan đến ăn nói thì tốt nhất (như luật sư, thầy giáo, công an cảnh sát, thẩm phán...)
Thái Tuế mang tính chất tự hào, đóng tại Tử Tức thì tự hào về con cái, hay nói về con mình, tại Phu Thê thì tự hào về chồng hay vợ, hay khoe chồng vợ mình....
Thái Tuế tại Phu Thê thì lấy dễ, lấy nhanh, hài lòng, yêu thực sự....
Lưu Thái Tuế xung chiếu hạn thì dễ vướng vào cãi cọ, thị phi, hoặc kiện tụng...
Có Thái Tuế thủ Mệnh cũng có khả năng là con trưởng

Tuần Triệt đương đầu (xung chiếu Mệnh) thiếu niên tân khổ (vì bệnh, khổ tâm....)

Xem cung Phụ Mẫu thì phải là con trưởng hoặc út thì mới xem rõ được

Không Kiếp tại Tỵ thì phát nhanh, tàn nhanh, tại Hợi phát nhưng còn giữ lại được

Thiên Tài chủ sự cắt giảm, đóng tại Mệnh thì khó làm lớn (vì nghĩa cắt giảm), tại Tật thì lại tốt (cắt giảm bệnh tật)

Quả Tú hành Kim, Cô Thần hành Hỏa


Tang Hổ
Mệnh Tang Môn thì mặt buồn so, hiền lành
Mệnh Bạch Hổ thì có thể xinh nhưng rất dữ, gian nan, đáo để, vất vả, gian truân
Nữ Tang khổ hơn Hổ
Bạch Hổ Nữ Mệnh thì nhiều lo lắng, tại Phu thì khó lấy chồng
Bạch Hổ cư Dậu, Mệnh VCD Nữ Mệnh thì có tiếng tăm, tuy phát về sự nghiệp nhưng tình duyên, hạnh phúc gặp trục trặc, trắc trở
Bạch Hổ tại Phu Thê thì lập gia đình muộn màng, khó khăn
Các tuổi Dần Thân thì tác họa của Bạch Hổ giảm đi

Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần
Thiên Giải mang tai họa về tinh thần, Địa Giải mang tai họa về vật chất
Thiên Giải giải mạnh hơn Giải Thần, giải toàn bộ tai họa, tại Tài thì không tốt (giải hết tiền tài)
Địa Giải hành Thố (Địa), có lẽ bịa thêm, có lẽ tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi và hành Thổ thì bị ảnh hương mạnh, giải sạch tốt xấu

Song Hao gặp Địa Giải đồng cung thì xấu
Song Hao Mão Dậu, sinh giờ Thìn và Dậu thì mới ăn

Tướng Quân chỉ về lãng mạn, gặp Đào Hoa, Mộc Dục, Hồng Loan...chủ về dâm
Hỏa Linh
Hỏa Linh tại cung Thủy thì không tác họa lắm
Tốt tại cung Mộc và Hỏa
Hỏa Linh cư cung Hỏa, Mộc thì tốt, ăn nói khúc triết, tại cung Thổ thì bình hòa, tại cung Kim thì ăn nói ẩu tả, thô lỗ hoặc cộc cằn....
Hỏa thì bộc phát nhanh
Linh thì phát chậm nhưng lâu bền
Mệnh Linh tinh, nếu có bệnh thì lâu khỏi

Thiên Mã gặp Tuần, Triệt không nhảy được như quan điểm của cụ Thiên Lương, và Mã tại Hợi là nơi cùng đường nên phải nhảy


Người nào đẻ vào tháng nhuận thì đời dư ăn

Cự Cơ tối hiềm Hóa Kỵ
Cự gặp Lộc Tồn thì kỵ, bất đắc chí
Cự gặp Kỵ thì bất đắc chí, bất mãn với hoàn cảnh, hay than thở, gặp Lộc Tồn thì càng xấu. Tại Tật gặp Kỵ thì có bệnh khó chữa
Hóa Kỵ hành Thủy, ở cung VCD thì lại tốt

Hung tinh
Hung tinh hãm địa thì cũng ăn nhưng ăn vào thời loạn, tranh tối tranh sáng, còn hung tinh đắc địa thì ăn vào cả thời bình lẫn loạn
Hung tinh ăn về hậu vận, về già mới ăn
Tuổi Tỵ Hợi ăn Không Kiếp rất mạnh


Phu thê
Phu thê có Thiên Không Địa Kiếp đủ bộ thì sát phu thê
Phu Thê tốt đẹp thì lập gia đình dễ dàng, vợ đẹp hoặc hiền,vợ chồng tốt....
Vợ chồng hạnh phúc hay không thì coi Nô, chủ về gia đình ăn ở, hoàn cảnh sinh sống
Vợ chồng bỏ nhau hay không thì cần coi thêm Nhật Nguyệt, nếu Nhật Nguyệt hãm thì dễ bỏ nhau, nhưng nếu tại Thìn Tuất thì lại khó bỏ. Âm Dương miếu vượng thì vợ chồng khó bỏ nhau
Lấy vợ bé thường thì phải có Đào, Hồng, Hỉ chiếu, cần Thiên Di có Đào Hoa và Tật Ách có dâm tinh như Tướng ngộ Thai....

Thiên Tài cư tại cung VCD hoặc tại Tật Ách thì lại tốt

Xương Khúc thì ham vui hát hò, văn nghệ..., không hay suy nghĩ, lãng mạn văn nghệ

Đà La thì lãng mạn, âu sầu, lì lợm
Kình Dương là gọng kìm, cần sao chủ vị

Tham Lang hành Hỏa

Hữu Bật là cây cung, ly hương, lập gia đình thì già kén kẹn hom, làm bé, làm lẽ


Giáp Xương Khúc thì là người ham vui, vì vui mà mang họa
Khi còn bé thì xét sinh khắc giữa cung và Mệnh để biết cha mẹ làm nên hoặc xuống dốc trong thời gian đó

Thiên Thọ
Thiên Thọ (Thọ chủ về lâu dài, bền) ở Tật thì bệnh tật lâu khỏi, bệnh tật triền miên, tại Mệnh thì sống lâu, tại Tài thì tiền của bền vững....

Song Hao làm giảm tác họa của Thiên Không, làm giảm bệnh tật....
Hóa Khoa, Tuần Triệt giải được Thiên Không

Thiên Tướng, Tướng Quân thì dâm &nb sp;

Nữ nhân có Thái Âm lạc hãm thì kinh nguyệt không đều, ít nhất là xảy ra trong một giai đoạn nào đó trong cuộc đời và thông thường sinh lý không mạnh, không có nhiều hứng cảm khi làm tình. Nếu Thái Âm sáng sủa thì kinh nguyệt điều hòa
Nam nhân có Thái Dương lạc hãm thì sinh lý yếu hoặc có vấn đề như xuất tinh sớm, không cương cứng, không thể làm tình nhiều lần hoặc thiếu kỹ thuật... Nếu Thái Dương sáng sủa thì sinh lý mạnh khoẻ

Tóm lại Âm Dương sáng sủa thì cuộc sống sinh lý vợ chồng tốt, một điều kiện đưa đến hạnh phúc.

Âm Dương đồng sáng sủa thì vợ chồng khó bỏ nhau, thông thường thì vợ chồng tương đắc trừ khi gặp sao khắc kỵ với Âm Dương. Âm Dương sáng sủa tại Thìn Tuất thì vợ chồng tương đắc về sở thích nhưng hay tranh cãi nhau. Âm Dương lạc hãm là một điều kiện để vợ chồng dễ xung khắc, dễ bỏ nhau, xa cách hoặc chia ly

Âm Dương đồng tranh Sửu Mùi: vợ chồng thông thường không nhường nhịn nhau, tranh đua nắm thế thượng phong, từ đó dễ đưa đến bất hòa, vợ muốn lấn chồng, chồng muốn lấn vợ

Mệnh giáp Âm Dương lạc hãm thì vợ chồng dễ xa cách hoặc chia ly, nếu gặp Tuần Triệt thì cũng bỏ nhau nhưng bỏ chậm

Hạn rơi vào Âm Dương thủ hạn cũng quan trọng, thông thường dễ liên quan đến chồng hoặc cha nếu gặp Thái Dương, và mẹ hoặc vợ nếu gặp Thái Âm

Hạn gặp Âm Dương phản bối thì khó lập gia đình nhưng lại vấn vương về tình cảm

Cung Tật có Âm Dương dù đắc hay hãm cũng dễ có tật về mắt như mắt bị cận thị, yếu

Âm Dương sáng sủa thì cha mẹ thông thường thọ, còn lạc hãm thì không thể kết luận về thọ yểu


Mệnh VCD
Nhạy bén
Có giác quan thứ sáu, linh cảm được chuyện gần xảy ra
Lúc còn nhỏ thường vất vả, lận đận, hoặc hay đau yếu, khó nuôi
Khi lớn lên, thường dễ giảm thiểu được bệnh tật, tai họa đo lường trước hoặc cảm nhận trước được sự việc sắp xảy ra
Thường hay mắc bệnh dị ứng hoặc trong đời có lần mắc bệnh dị ứng.
Rất nhạy cảm khi gần người khác phái
Dễ thích ứng được với hoàn cảnh
Không có lập trường tư tưởng vững vàng nếu không nằm trong các trường hợp đặc biệt đã nêu
Chỉ làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không bền, không thể đứng mũi chịu sào được, hoạt động trong bóng tối hoặc ẩn danh là hay nhất.
Cuộc sống không bền, trôi nổi, cho dù đắc cách thì thường thường phú qui cũng khả kỳ (phú quí chỉ trong một giai đoạn), hoặc đáng hưởng phú quí thì lại chết
Nếu là con trưởng thì không sống gần cha mẹ, nên làm còn nuôi họ khác, nếu gần cha mẹ thì dễ chết non hoặc nghèo (phi yểu tắc bần)
Mệnh VCD thì cần Hỏa mệnh và Kim mệnh vì mệnh VCD như nhà không nóc, cần bản mệnh có hành khí mạnh mẻ cứng cỏi làm nồng cốt. Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc mệnh chưa chắc ăn được
Thường là con vợ hai, vợ lẽ

Mệnh VCD mà cung Tử cũng VCD thì xấu, cả đời không con hoặc khổ về vấn đề con cái

Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2016

Nguyên lý vị nhân - hạt của chúa (hạt higgs) - vô ngã của đạo phật và sao không trong tử vi (theviolet)

Hầu như tất cả các thuyết về vũ trụ hiện nay, cho dù rất có lý và đã có bằng chứng ủng hộ như Big Bang, đều gặp phải vấn đề rất khó giải thích: fine tuning (tinh chỉnh- tạm dịch). Đó là do trong các thuyết này chứa những tham số mà chỉ thay đổi một chút thôi thì vũ trụ đã tiến hoá theo những chiều hướng hoàn toàn khác, ở đó không có cơ hội cho sự xuất hiện của con người. Dường như các nhà khoa học cố "ép" vũ trụ vào những phương trình của mình.

Nếu vũ trụ quả thật có chứa những tham số chính xác đến như vậy, sẽ có nhiều người tự hỏi: liệu có một trí tuệ siêu việt nào đã thực hiện những phép tinh chỉnh đó? Chúa trời chăng?

Để không phải viện đến Chúa trời, người ta đã phải viện cầu tới một nguyên lý không giàu tính khoa học cho lắm, đó là nguyên lý vị nhân.

Nguyên lý vị nhân phát biểu rằng vũ trụ phải chứa những tham số được tinh chỉnh kỹ càng như vậy, bởi nếu không sẽ chẳng có con người để mà hỏi vì sao! 

Nguyên lý vị nhân cũng được sử dụng để biện giải cho lý thuyết dây. Vấn đề của lý thuyết dây là nó đưa ra quá nhiều những vũ trụ có thể, nhiều đến nỗi toàn bộ số hạt cơ bản của vũ trụ này vẫn là quá ít. Thế thì vì sao vũ trụ ta đang sống lại trở thành hiện thực, trong khi những khả năng khác thì không? Theo các nhà khoa học, là vì nếu khác đi thì chẳng còn con người nữa! 

Phải viện tới nguyên lý vị nhân để biện giải các lý thuyết khoa học có vẻ là việc cực chẳng đã. Đó là lý do vì sao nhiều nhà khoa học vẫn tin rằng một lý thuyết đích thực về vũ trụ vẫn đang lẩn tránh con người. Đó sẽ là một lý thuyết tránh được fine tuning, và có thể đơn giản tới ngỡ ngàng.

đã là một lý thuyết thì nó chỉ đúng đến khi mâu thuẫn với thực nghiệm, thế nên không có gì là chắc chắn đúng.

Các vũ trụ song song có thể là lời giải thích khả dĩ cho nan đề đa dự báo của các lý thuyết vũ trụ hiện nay. Tuy nhiên, như đã nói ở các stt trước, có lẽ chỉ nên tập trung vào vũ trụ "thế tục" của chính chúng ta, thế đã là quá đủ phức tạp, quá lớn để mà hiểu. Như thế các vũ trụ song song hoặc một cấp độ ẩn tàng sâu xa hơn, nếu có, thì cũng không thể nào tiến nhập vào được, vì thế nên tập trung vào những gì có thể thấy là hơn.

Đối xứng hiện là một nguyên lý được thừa nhận là đúng đắn, nhờ đó mà số lượng các bậc tự do được giảm xuống. Tuy nhiên lý thuyết dây, với số lượng khổng lồ của các dự báo khả dĩ, có lẽ đối xứng cũng không giảm được bao nhiêu. 

Trực giác mách bảo tôi là lý thuyết dây chỉ là một trào lưu, cho dù nhiều phần nghiên cứu trong lý thuyết này có thể sẽ hữu dụng trong tương lai.

Nhân đây có lẽ nên nói thêm một chút về String Theory (dù có vẻ xa rời topic này).

Trong lý thuyết dây, phần tử căn bản của vật chất là các dây, là các đối tượng chỉ có chiều dài, giống như sợi tóc nhưng bé đến nỗi có thể bỏ qua các chiều khác. Ngay chiều dài của các dây này cũng ngắn đến mức khó mà tưởng tượng được: khoảng mười phần tỷ tỷ tỷ tỷ của một mét (Planck Length).

Chính sự tương tác của các trạng thái "co, duỗi, vặn xoắn" của các dây này sẽ hình thành nên thế giới. Có thể xem các "hạt cơ bản" trong vật lý hạt (Particle Physics) tương ứng với các trạng thái khác nhau của các dây. Nhưng nếu hiểu như thế thì lại dẫn tới một điều quá khó giải thích: các dây có vô vàn trạng thái, mà nếu mỗi trạng thái tương ứng với một hạt, thế thì vì sao lại chỉ có một số lượng khá ít các hạt cơ bản? 

Các hạt cơ bản là các hạt có mặt trong mô hình chuẩn (Standard Model), tuy nhiên có lẽ cũng từ ý tưởng mối quan hệ tương ứng giữa trạng thái của một dây và một hạt, hiện có một xu hướng mới trong vật lý gọi là Bayond Standard Model, ở đó người ta truy tìm những hạt ngoài mô hình chuẩn. Một trong các hướng truy tìm được dựa trên nguyên lý siêu đối xứng (supersymmetry).

Với khả năng của con người, việc kiểm chứng xem các dây quả thực có tồn tại hay không là điều không thể. Là vì để thâm nhập vào giới hạn độ dài Planck phải cần tới năng lượng cực kỳ lớn, lớn đến nỗi năng lượng tổng cộng của mặt trời vẫn là quá ít. 


Hiện nay, yêu cầu tối cao cho mọi lý thuyết khoa học là nó có thể được khẳng định bằng thực nghiệm. Như thế có nghĩa " thực chứng" là cái quyết định tính đúng đắn của một lý thuyết. Thế nhưng nhiều nhà khoa học hiện nay lại gợi ý nên bỏ điều này, là vì có những thứ, giống như dây trong lý thuyết dây, có lẽ không bao giờ "thực chứng" được. Nhưng nếu thế thì khoa học khác gì huyền học?
Ở thế giới vi mô mọi đối tượng quá bé, bé đến ...vô lý. Liệu thế giới này có cần phải được xây dựng từ những "viên gạch" bé đến nhường ấy không? Hay là con người chỉ "phát hiện" được những gì họ muốn thấy? 


Cái con người thấy rất có thể chỉ là ảo ảnh của nhận thức. Nghĩa là cái ta tưởng rằng thuộc về giới tự nhiên thực ra lại nằm trong trí não ta. 

Tương tự như vậy, thế giới vĩ mô lại lớn đến mức vô lý. Vũ trụ có thể quan sát được là quả cầu có đường kính 96 tỷ năm ánh sáng, trong khi mỗi giây ánh sáng đi được 300.000 km. Ngôi sao Alpha, là mặt trời gần với mặt trời của chúng ta nhất, cũng cách xa tới 4 năm ánh sáng. Thế giới vĩ mô cũng có gì đó na ná như ảo ảnh của nhận thức vậy.

"Ảo" nhất có lẽ thuộc về công trình của De Sitter. Khi giải phương trình trường của Einstein, De Sitter đã tìm ra một nghiệm tương ứng với một vũ trụ trống rỗng, không hề có vật chất. Điều này khiến Einstein cũng không hiểu được. 

Ngày nay, người ta phải dùng thuật ngữ anti-de Sitter Universe để nói về cách vũ trụ có vật chất.

Mãi tới năm 1998, người ta mới hiểu được phần nào vũ trụ rỗng của De Sitter. Đó là vũ trụ vô hình, tuy nhiên có chứa năng lượng tối (Dark Energy). 

Vũ trụ rỗng có liên quan gì với các sao Không trong tử vi chăng?


Cá nhân tôi, không cho là sao không trong tử vi có liên quan tới tính không trong lý thuyết De Sitter space.  Mặc dù vậy, có rất nhiều sự tương tự của lý thuyết dây trong tử vi. 



Ví dụ đi, trong SUSY string, khi 2 sợi dây nối với nhau để tạo thành một hạt cơ bản thứ ba, có phải tương tự là lý thuyết lộc tùy kị lai trong tử vi bắc phái hay không?

Nếu các sợi dây vắt qua chiều thời gian, đó là lý thuyết xem vận

Vắt qua chiều không gian, là lộc truy kị.... 
Trong Đạo Phật có câu, đại ý: "sự thấy" là kết quả của sinh diệt liên tục qua mỗi sát-na.


Theo khoa học mà luận thì hoàn toàn đúng: con người nhìn thấy cái gì đó là do các photon phát ra từ vật. Các photon "Sinh" khởi đầu từ vật, truyền qua khoảng cách và "Diệt" tại võng mạc của mắt người. Vì tốc độ ánh sáng rất lớn nên sinh- diệt diễn ra trong quãng thời gian cực nhỏ.


Tính "vô ngã" mà đạo Phật nói tới phải chăng chính là tính liên đới nhất thể?


Có rất nhiều học thuyết tử vi, có thể được gợi ý từ lý thuyết dây, mà từ đó dù mình không được biết thì vẫn có thể khôi phục lại.

Ví dụ, đối ngẫu của 2 lý thuyết dây, còn gọi là Đối xứng gương. Khi thực hiện đối ngẫu này cho các hệ cơ học Hitchin của các không gian Moduli, thì ta thu được biến đổi Fourier-Mukai trong homological mirror symmetry.


Áp dụng vào trong tử vi ý tưởng này, thì sinh ra hiện tượng đối ngẫu Sao- Cung nổi tiếng, trong đó các lý thuyết với sao và lý thuyết với cung chuyển đổi cho nhau. Đặc biệt, ví dụ lý thuyết sao treo/ mệnh chủ thì đối ngẫu với lý thuyết cung trọng điểm của tử vân, đó là một ví dụ. 


Rõ ràng có nhiều điểm chung giữa lý thuyết dây nói riêng và khoa học nói chung với tử vi. Liệu có thể coi các sao trong tử vi tương ứng với các hạt cơ bản trong vật lý hạt? Và coi mỗi lá số giống như trạng thái của một hệ? Sự tiến triển theo thời gian của một hệ tuân thủ phuơng trình sóng Schrodinger, cái này rất giống với "vận" trong tử vi. 


Việc coi các sao trong tử vi như một hạt cơ bản, cái này là cái cổ điển trong lý thuyết mệnh chủ/ sao treo của Đông A. Chỉ cần học qua lý thuyết trường lượng tử (QFT), thì lập tức thấy ngay ý tưởng đó rất rõ ràng.



Và coi mỗi lá số giống như trạng thái của một hệ? 



Một lá số coi như là một điểm trong noncommutative phase space. 

Hiện tượng nhiều người trùng một lá số, người ta gọi đó là quantization

Sự tiến triển theo thời gian của một hệ tuân thủ phuơng trình sóng Schrodinger, cái này rất giống với "vận" trong tử vi?
Cái này thì không chắc đúng, vì khi nghiên cứu lý thuyết xem vận trong tử vi, thì phải sử dụng các công cụ mạnh hơn phương trình schrodinger. Cụ thể hơn là lý thuyết dây siêu đối xứng và tương tác giữa các M-branes.
Lý do, công cụ xem vận của tử vi nam phái hiện nay kiểu nhìn sao ghép chữ, nó quá yếu, chỉ tương tự như standard models. Cần phải các công cụ mạnh hơn thì mới mô phỏng được bài toán xem vận trong tử vi.
Nhưng đại khái, hiểu kiểu baby như Schrodinger cũng gần đúng.

ứng dụng khoa học vào tử vi, hay muốn xem có ý tưởng nào hay trong tử vi để ứng dụng vào khoa học?


Tóm lại, nói theo kiểu tử vi cho dễ hiểu và đại chúng. Cho hai hạt cơ bản, chúng nó có thể nhập lại tạo ra hạt thứ 3, gọi là phép tính nhân.

Cho 2 sao, chúng nó có thể nhân với nhau, để tạo ra 1 cách cục.

Vậy, với 2 cung, ta có nhân với nhau để tạo ra cung thứ 3 hay không? Vì sao và cung đối ngẫu nhau. Cuối cùng, hóa ra lại là bài toán quan trọng trong tử vi đẩu số. 

Với Giải Nobel, may mắn cũng góp phần đáng kể.


Hầu như mọi người đều coi khối lượng của một vật là chuyện đương nhiên phải có, nhưng Peter Higgs lại suy nghĩ khác. Ông cho rằng các hạt cơ bản vốn dĩ không có khối lượng, sở dĩ chúng có khối lượng là do một loại hạt bí ẩn khác truyền cho, giống như ai đó được tiêm vậy.

Ý tưởng về hạt bí ẩn mang khối lượng đến cho mọi vật xuất hiện khi Higgs nghiên cứu hiện tượng phá vỡ đối xứng trong vật lý, diễn ra trong những năm 60 của thế kỷ trước. Ý tưởng đó kỳ lạ đến nỗi bị Heigenberg phê là "không có đủ hiểu biết về vật lý". Vì ngay Heigenberg cũng tin rằng khối lượng là thứ đương nhiên phải có. 

Nhưng qua thời gian, càng ngày người ta càng nhận thấy Higgs có lý và tiến hành truy tìm hạt mang khối lượng đến cho mọi vật. Người ta đã dành sẵn một chỗ trong mô hình chuẩn cho hạt này.

Việc truy tìm khó đến nỗi người ta gọi đó là "hạt của Chúa". Mãi đến năm 2012, tức sau hơn 40 năm, hạt của chúa mới được tìm ra trong máy gia tốc hạt LHC của Tổ chức nguyên tử châu Âu. Kết quả là giải Nobel 2013 cho Peter Higgs và một số người khác.

Hạt của Chúa chính là hạt cuối cùng lấp đầy mô hình chuẩn, hiện được gọi là hạt Higgs. Hạt Higgs là sản phẩm của trường Higgs, thứ được tin là lấp đầy không gian.

Khi nói về công trình của mình, Peter Higgs thừa nhận đã rất may mắn khi có được ý tưởng kỳ lạ đó. Ông không có nhiều công trình, nhưng một trong số chúng đã khiến ông đoạt giải Nobel.