Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2020

Phân tích của bác VDTT về Tứ Hóa Phi Tinh Lương Nhược Du

Viết tắt:
Bản mệnh = mệnh như trên lá số.
Hạn mệnh = cung chính của đại hạn.
Lưu mệnh = cung chính của lưu niên (như năm nay là Kỷ Hợi, tất lưu mệnh là cung Hợi).
-------------

Khác biệt sắc nét đầu tiên của phái Lương Châu so với mọi phái khác là tính “luồng” của cả hóa Kị và hóa Lộc.

Hãy xét niên Kị (tức sao Kị của năm sinh, như sinh năm Giáp thì sao Kị ở cung có Thái Dương, năm Ất ở cung có Thái Âm v.v…) Giả như cung A thuộc can Ất có sao Thái Dương thì các phái phi tinh khác xem đây là “Kị nhập cung A” và thường dừng ở đó. Về ngoại lệ, có phái cho Kị của cung A nhập cung B, rồi kị của cung B nhập cung C, nhưng lý do tại sao thì (tối thiểu theo tôi) rất mơ hồ, có khi chẳng đưa lý do gì cả.

Trái lại ông LND thì có chủ trương rất rõ ràng: Ảnh hưởng của niên Kị không chỉ ở cung A, mà còn theo can của A nhập cung B nữa, và về sức mạnh thì Kị ở B chẳng thua gì Kị ở A. Như trường hợp này giả sử sinh năm Giáp, tất Thái Dương ở Hợi hóa Kị, nhưng vì Hợi can Ất (ứng tháng 10 năm Giáp), nên Thái Âm ở Mão hóa Kị; vậy là vì sinh năm Giáp nên chẳng phải chỉ sao Thái Dương, mà cả cặp Âm Dương đều chịu ảnh hưởng mạnh của niên Kị.

Còn niên Lộc thì sao? Theo lý thường mà đoán ta tưởng ông LND sẽ dựa theo can của cung A mà tìm hóa Lộc ở cung B. Như trường hợp vừa kể Thái Dương cư Hợi tất Liêm Trinh cư Ngọ, Giáp Liêm Phá Vũ Dương nên Liêm hóa niên Lộc, can của cung Ngọ là Canh, nên theo Canh Nhật Vũ Âm Đồng đoán là kế tiếp cho Nhật hóa Lộc. Sự thật không phải vậy. Ông LND lý luận rằng muốn tải Lộc phải có vật tải, sức tải thì chỉ có Kị đủ mạnh mà thôi; thế nên không phải chỉ Kị, mà Lộc cũng phải chuyển bằng Kị. Thành thử vì Canh Nhật Vũ Âm Đồng mà cung kế tiếp chịu ảnh hưởng của niên Lộc là cung có Thiên Đồng, tức cung Dậu. Cần chú ý kỹ rằng trong trường hợp này cả hai cung Ngọ (Liêm) và Dậu (Đồng) đều chịu ảnh hưởng của niên Lộc.

Một khác biệt khá rõ ràng giữa ông LND và các phái phi tinh khác là ông không ngừng ở năm sinh, mà thêm cung mệnh, thành thử các sao hóa chính không chỉ có niên Kị, niên Lộc mà thêm mệnh Kị, mệnh Lộc, tổng cộng 4 sao.

Vì mỗi sao ảnh hưởng 2 cung như đã trình bày, 4 sao Lộc Kị (2 niên và 2 mệnh) ảnh hưởng 8 cung, dù một số cung trùng nhau có thể cũng đủ cho ta thấy hình ảnh phác sơ của cách cục. Ta hãy thử ấn chứng xem sao. Phương pháp ấn chứng của tôi luôn luôn là dùng lá số danh nhân. Lần này xin dùng lá số ông Mao Trạch Đông

Ví dụ: Lá số Mao Trạch Đông

Niên kị: Tham Kị nhập mệnh, mệnh can Canh Đồng hóa Kị nên niên Kị cũng có ảnh hưởng trên cung tử tức (và dĩ nhiên có tác dụng lớn trong đại hạn 33-42 tuổi)

Mệnh kị: Mệnh can Canh nên cung tử tức lại phải chịu hóa Kị thêm một lần nữa (có thể đoán ngay là tử tức xấu lắm). Cung tử tức can Đinh nên chuyển Kị sang Dậu (Cự Kị), là cung phụ mẫu (sau này sẽ giải thích tại sao như vậy phụ mẫu cũng chẳng tốt).

Niên Lộc: Phá Lộc nhập tài ở Thìn, chuyển Kị (can Bính) sang Liêm ở Di ở Dần, gây ra ảnh hưởng tốt ở cung này, (mặc dù ở đây có tự Lộc chẳng thể coi là lý tưởng). Với người đấu tranh giành thắng như ông Mao, không may mắn nào bằng may mắn ở cung di, ứng hoàn cảnh mà ông được hưởng hoặc phải đương đầu, nên đây là cách rất tốt cho ông! Nó cũng cho biết đại hạn Thìn của ông chẳng tệ (hai lần được trời cứu, một lần mượn tay Trương Học Lương năm 1936, một lần mượn tay quân Nhật từ 1937 trở đi).

Mệnh Lộc: Mệnh can Canh Nhật hóa Lộc ở huynh đệ (từ nay xin gọi là bào cho ngắn), nhưng bào can Kỉ, chuyển Kị (Khúc) trở về mệnh, tức là mệnh Lộc làm tốt cho chính ông Mao.


Vi dụ: Lá số Tôn Dật Tiên

Niên Kị: Năm Bính Liêm Kị cư Giáp Ngọ là cung tử tức, Giáp chuyển Kị (Dương) nhập Hợi là cung phúc.

Mệnh Kị: Mệnh cư Đinh Dậu, Cự Kị nhập tài ở cung Quý Tị, Quý chuyển Kị (Tham) nhập Thìn là cung tật.

Niên Lộc: Năm Bính Đồng Lộc cư Đinh Dậu là cung mệnh, Đinh chuyển Kị (Cự) đưa Lộc đến cung tài ở Tị.

Mệnh Lộc: Mệnh Đinh Dậu khiến Âm hóa Lộc ở Tân Mão là cung di, Tân chuyển Kị (Xương) đưa Lộc đến Thân là cung bào.

Luận: Xét niên Kị trước. Liêm Kị cư Giáp Ngọ thì có thể dùng pháp luận của phái tam hợp nên đây tạm không bàn. Phúc trong phái Lương Châu là một trong hai cung “quả báo” (cung kia là di), nên bị niên Kị tràn sang là điềm bất tường, sẽ bàn thêm sau.

Mệnh Kị và niên Lộc cùng có ảnh hưởng trên cung tài. Đa số các phái phi tinh đều coi Lộc Kị một chỗ là “song Kị”. Phái Lương Châu phức tạp hơn, nhưng đây tạm chưa bàn tốt xấu vẫn khẳng định ngay được rằng cung “tài” là một yếu tố lớn trong đời ông Tôn. Sự thật quả là như vậy, vì ông luôn luôn phải làm việc gây quỹ để đấu tranh lật đổ nhà Thanh.

Mệnh Kị lan sang cung tật, lại ảnh hưởng Tham Lang. Tham ở cung tật ứng bệnh gan, đây chính là bệnh khiến ông Tôn qua đời năm 1925. Ông chết như vậy là chưa sống hết một con Giáp, coi là đoản thọ, có thể nói là ứng với điềm bất tường của cung phúc đã nói trên.

Mệnh Lộc ứng hai cung là di và bào. Cái may của di thật quý báu, vì nhờ đó mà đường đi lại của ông Tôn có những diễn biến ly kì e còn hơn tiểu thuyết, ngay cả khi bị bắt giam trong sứ quán nhà Thanh -để mang về xử tử- vẫn thoát nạn như thường. Còn bào thì rõ ràng ứng với người anh của ông ở Hawaii, nơi mà ông ghé qua năm 13 tuổi và ở lại khá lâu, hình thành ý tưởng cách mạng trong đầu. Người anh này tiếp tục yểm trợ ông một cách tích cực sau này trên đường tranh đấu.


Ví dụ: Lá số Tưởng Giới Thạch

Niên Kị: Sinh năm Đinh niên Kị ở Phúc (Ngọ, Cự), Phúc can Bính nên chuyển đi hóa Kị tiếp ở Phụ (Tị, Liêm).

Mệnh Kị: Mệnh can Giáp nên mệnh Kị ở Di (Tuất, Dương), Tuất can Canh nên chuyển Kị sang quan (Thân, Đồng).

Niên Lộc: Niên Lộc ở Mệnh (Thìn, Nguyệt), Mệnh can Giáp nên chuyển Kị (Nhật) đưa Lộc sang Di (Tuất). Thêm Mệnh Kị vừa nói đến ở trên, vậy là di có cả Kị lẫn Lộc.

Mệnh Lộc: Mệnh can Giáp nên mệnh Lộc ở Phụ (Tị, Liêm), Tị can Ất nên chuyển Kị (Nguyệt) đưa Lộc trở lại mệnh (Thìn).

Luận: Niên Kị ở ngay phúc là cung “quả báo” thì thấy ngay là chẳng có kết quả xứng ý. Phụ và Di trong phái Lương Châu có tính hiển hiện (dễ thấy, dễ quan sát), thêm quan cũng có Kị có thể đoán ông Tưởng vì công danh mà một đời lao toái.

Niên Lộc cho ta thấy cung di có cả Kị lẫn Lộc, rõ ràng cung di là một yếu tố lớn trong đời ông Tưởng, thành bại bất thường. Sẽ bàn thêm sau.
Mệnh Lộc cho thấy ông Tưởng là một loại người may mắn tương tự như ông Mao Trạch Đông. Thảo nào thất bại rồi vẫn hùng cứ một phương, chết rồi lại có con giỏi giang kế nghiệp.

Trước khi tạm ngưng xin đưa một vấn đề khá lý thú ứng với cả hai ông Tôn và Tưởng. Hai ông đều có niên Lộc trong mệnh. Ông Tôn cung tài có cả Lộc lẫn Kị (niên Lộc –sau khi chuyển Kị- và mệnh Kị). Tương tự, ông Tưởng cung di có cả Lộc lẫn Kị.

Từ đó suy ra luật chung là nếu có niên Lộc trong mệnh tất phải có một cung bị cảnh Lộc Kị đấu tranh tức là có cả Lộc lẫn Kị. Đây phải coi là một vấn nạn của phái Lương Châu. Đọc các sách của ông Lương Nhược Du và học trò của ông là Trương Thế Hiền tôi không thấy họ nói phải giải quyết thế nào, nhưng theo suy luận của tôi họ đã có cách giải quyết ổn thỏa.

---------------------

Trường hợp 2 Kị trong phái Lương Châu không phức tạp như trường hợp Lộc Kị, “bí quyết” phán đoán là cứ trên 1 Kị là không tốt, càng nhiều Kị càng xấu

Rốt ráo thì khác biệt lớn nhất của phái Lương Châu so với mọi phái, bất luận tam hợp hoặc phi tinh, là cách xem dựa trên “luồng”, với hai luồng chính là luồng Kị và luồng Lộc. Thế nào là “luồng”? Như Kị của cung A nhập cung B, ta có liên hệ A-B, đây là liên hệ bình thường, đã thấy trong cả hai phái tam hợp và phi tinh. Nay giả sử Kị của cung B nhập cung C, ta có hai liên hệ A-B và B-C, chú ý rằng theo các cách cũ thì A-B và B-C thường không có liên hệ gì với nhau, mà nếu có liên hệ thì cũng không theo một quy luật nào rõ rệt.

Trái lại, theo phái Lương Châu thì ta có “luồng Kị” A-B-C. Cách thành luồng dĩ nhiên có điều kiện, nhưng một khi được coi là “thành luồng” thì 3 cung A, B, C trở thành liên hệ mật thiết với nhau. Khác biệt đáng kể so với các phái cũ là A và C không được coi là rời rạc nữa, mà có liên hệ mật thiết với nhau.

Luồng không nhất thiết phải dừng ở A-B-C. Nếu C thỏa điều kiện “có sao khác trong cung có thể hóa Kị”, từ nay gọi là điều kiện “khả Kị” cho ngắn gọn, thì Kị của cung C sẽ đến cung D, rồi nếu D “khả Kị” thì Kị của D sẽ đến cung E, cứ thế cứ thế…

Nhưng thế nào là điều kiện “khả Kị”? Cần phân biệt luồng Lộc và luồng Kị.

Luồng Lộc: Là luồng được bắt đầu bằng Lộc (niên Lộc, mệnh Lộc, cung A hóa Lộc nhập cung B], sau đó kế tiếp bằng Kị cả. Muốn có Kị kế tiếp thì phải thỏa một trong những điều kiện sau:

-Cung hiện cư có niên Lộc, mệnh Lộc, tự Lộc, hoặc có thể xuất Lộc sang cung xung (như đang ở cung Tí, can Giáp, cung xung là Ngọ lại có Liêm Trinh, vì Giáp khiến Liêm hóa Lộc nên đây là một trường hợp có thể xuất Lộc sang cung xung).

-Được đến cung hiện cư là do chuyển Kị, nhưng sao hóa Kị cũng đồng thời có thể hóa Lộc (như cung Tí có Thái Dương, cung trước có can Giáp nên hóa Kị nhập cung Tí, vì Thái Dương có thể hóa Lộc nên thỏa điều kiện). Chú ý rằng điều kiện này không được thỏa nếu được vào cung vì Xương hóa Kị (can Tân) hoặc vì Khúc hóa Kị (can Kỷ), ấy bởi vì Xương và Khúc đều không thể hóa Lộc. Vì lý do này mọi luồng Lộc đều chấm dứt sau khi gặp can Tân hoặc can Kỷ.

Điều kiện tiên quyết dĩ nhiên là cung hiện tại không tự Kị, vì đã tự Kị thì chẳng thể chuyển Kị sang cung khác. Tóm lại luồng Lộc bị chấm dứt khi gặp tự Kị hoặc Xương, Khúc hóa Kị.

Luồng Kị: Là luồng được bắt đầu bằng Kị (niên Kị, mệnh Kị, hoặc cung A hóa Kị nhập cung B] và kế tiếp bằng Kị. Muốn có Kị kế tiếp thì phải thỏa một trong những điều kiện sau:

-Cung hiện cư có niên Kị, mệnh Kị, hoặc có thể xuất Kị sang cung xung (như đang ở cung Tí, can Giáp, cung xung là Ngọ lại có Thái Dương, vì Giáp khiến Thái Dương hóa Kị nên đây là một trường hợp có thể xuất Kị sang cung xung).

-Cung hiện cư có một sao khác trong cung có thể hóa Kị. Thí dụ 1: Cung Tí có Thái Dương, cung trước có can Giáp nên hóa Kị nhập cung Tí. Vì Thái Dương độc thủ ở Tí, giả như Tí không có một trong hai sao Xương hoặc Khúc thì luồng Kị chấm dứt. Thí dụ 2: Cũng là Thái Dương hóa Kị, nhưng ở cung Sửu, vì ở đây Nhật Nguyệt đồng lâm nên thỏa điều kiện có sao khác hóa Kị (Nguyệt), thành thử cứ dùng can của cung Sửu mà tiếp tục luồng Kị.

Dĩ nhiên cung hiện cư không thể tự Kị, vì tự Kị khiến luồng Kị chấm dứt (y như luồng Lộc).

Ví dụ: Lá số Tưởng Giới Thạch

Thử bắt đầu bằng di (Canh Tuất) hóa Kị nhập quan (Đồng ở Mậu Thân). Quan chỉ có Đồng có thể hoá Kị là không thỏa điều kiện “khả Kị”, nhưng theo luật thì luôn luôn được chuyển Kị một lần sau khi bắt đầu nên quan hóa Kị nhập tài (Cơ ở Nhâm Tí). Nhâm Tí chỉ có Cơ có thể hóa Kị nên không thỏa điều kiện “khả Kị”. Thành thử luồng Kị bắt đầu ở di chấm dứt ở tài, tức luồng Di-Quan-Tài.

Thử bắt đầu lại bằng mệnh (Giáp Thìn) hóa Kị nhập di (Nhật ở Canh Tuất), tất nhiên được chuyển Kị sang quan (Đồng Kị ở Mậu Thân), nhưng Mậu Thân chỉ có Đồng có thể hóa Kị nên không thỏa điều kiện “khả Kị”, do đó luồng này ngừng ở Mậu Thân, thành luồng Mệnh-Di-Quan.

Thử bắt đầu lại lần nữa bằng phúc ở Bính Ngọ, cung này có niên Kị (Cự) thủ, tự nhiên được chuyển Kị sang cung phụ (Liêm Kị ở Ất Tị). Phụ có Tham tức là thỏa điều kiện “khả Kị” do đó can Ất chuyển Kị sang cung mệnh (Âm Kị ở Giáp Thìn). Mệnh có sao khác có thể hóa Kị (Xương) do đó can Giáp chuyển Kị sang cung di (Dương Kị ở Canh Tuất). Di có sao khác có thể hóa Kị (Khúc) do đó can Canh chuyển Kị sang cung quan (Đồng Kị ở Mậu Thân). Vì Đồng là sao duy nhất có thể hóa Kị ở cung Mậu Thân nên luồng Kị dừng ở đây. Tóm lại luồng Kị là Ngọ-Tị-Thìn-Tuất-Thân, tức Phúc-Phụ-Mệnh-Di-Quan.

------------------------

Phái Lương Châu chủ trương phải có cách cục mới có vận hạn, ngoài ra, phái Lương Châu chủ trương tín hiệu cách cục phải có ý nghĩa thời gian --> tìm thời gian (Theo tam tài Thiên Địa Nhân - Thiên Bàn (lá số gốc), Địa Bàn (đại hạn bàn), Nhân Bản (lưu niên bàn)) để tín hiệu cách cục xảy ra 

Hóa Lộc và hóa Quyền có liên hệ chặt chẽ với nhau. Đại khái không có Quyền giúp đắc lực thì Kị thắng Lộc, có Quyền giúp đắc lực thì Lộc có thể đương cự với Kị, thậm chí có thể thắng Kị.

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2020

Lương Nhược Du - Cách xem vận trong phi tinh Lương Phái

Cung vận:
Cách an đại vận: đại vận tính theo cục số, nhưng đại vận thứ nhất của Lương phái không an ở mệnh mà dùng cung phu thê làm Dụng kết hợp với lưu niên thái tuế trong đại vận đó để xem vận. Bạn có thể tham khảo cách an đại vận của Lương phái hoặc bạn có thể an đại vận ở mệnh bình thường như Nam phái và tứ hóa phái.

Cách an lưu niên thái tuế: vào năm nào thì lưu niên thái tuế đóng ở cung đó. Ví dụ năm Kỷ Hợi thì lưu niên thái tuế đóng ở cung hợi.

Cách an lưu nguyệt (vận tháng): cung dần của địa bàn là cung chức nào của nguyên bàn thì cung chức đó của lưu niên thái tuế là tháng giêng của năm đó. Ví dụ cung dần của lá số nguyên bàn là cung Tài Bạch thì năm Kỷ Hợi lưu niên thái tuế đóng cung hợi, như vậy cung tài bạch của cung hợi là cung mùi sẽ an tháng Giêng của năm hợi. Các tháng tiếp theo đi thuận, bất kể nam nữ tuổi âm tuổi dương. Ví dụ trên, tháng hai sẽ là cung thân, tháng ba cung dậu, tháng tư cung tuất…

Cách an lưu nhật: tháng là quân, ngày là thần cho nên ngày 1 tháng đó sẽ an ở cung tiếp theo tính theo chiều thuận. Ví dụ tháng Giêng an ở cung mùi thì ngày 1 tháng Giêng an ở cung thân, tháng hai an ở cung thân thì ngày 1 tháng hai an ở cung dậu. Cứ thế đi thuận có mùng 2 mùng 3 mùng 4, …

Cách an lưu thời: giờ Tý hàng ngày an tại cung an ngày đó, cứ thế đi thuận đến giờ hợi. Ví dụ ngày 3 tháng hai ở cung hợi thì giờ Tý ngày 3 tháng hai an tại cung hợi, giờ sửu an cung tý, …

Tứ hóa tượng của các vận:

Tứ hóa của nguyên bàn là tứ hóa của năm sinh

Tứ hóa của đại vận là tứ hóa của can cung đại vận. Ví dụ sinh năm Đinh thì cung hợi là Tân Hợi. Đại vận đến cung hợi thì lấy can Tân đế an tứ hóa đại vận.

Tứ hóa của vận một năm là tứ hóa của lưu niên thái tuế, ví dụ lưu niên thái tuế là Kỷ Hợi thì dùng can Kỷ của năm Kỷ Hợi để an tứ hóa lưu niên. Lưu ý rằng cung an lưu niên thái tuế chính là cung mệnh của lưu niên, tại cung đó có can cung riêng. Ví dụ năm Kỷ Hợi thì mệnh lưu niên đóng cung Hợi, cung hợi của tuổi Đinh Nhâm là Tân Hợi thì can Tân đó được dùng để tính tứ hóa của mệnh lưu niên Kỷ Hợi.

Tứ hóa của lưu nguyệt: tính theo can của tháng đó, ví dụ xem vận tháng Đinh Mão thì dùng can Đinh để phát động phi hóa của tháng đó. Mệnh tháng đóng tại mão, với tuổi Đinh Nhâm là cung quý mão, thì mệnh tháng lấy can quý để tính toán tứ hóa của mệnh tháng.

Tứ hóa của lưu nhật, lưu thời cũng tính toán theo nguyên tắc giống lưu niên lưu nguyệt.

Luận cát hung của đại vận
Trong đại vận đó ta có can cung đại vận, từ đó tính ra được tứ hóa đại vận. Ta có cung mệnh đại vận mới và 11 cung chức trong vận đó cũng thay đổi khi lập cực cung mệnh tại cung đại vận. Mọi công thức xuyến liên ta học phía trên có thể áp dụng ở đại vận, khi thay cung mệnh mới và các cung chức mới. Ví dụ xem gia đạo hưng suy, ta dùng cung Điền đại vận làm thể, dùng cung Mệnh đại vận và Phúc đại vận và Di đại vận và niên Kỵ làm Dụng tính toán ra tổ hợp xuyến liên mới. Tổ hợp này cho biết sự hưng suy của gia đạo trong 10 năm đại vận đó. Nguyên bàn có tổ hợp Xuyến Liên Thể Dụng nào thì đại vận có tổ hợp Xuyến Liên Thể Dụng đó.

Ngoài ra có thể xét tương tác cung đồng chức của đại vận với nguyên bàn. Ví dụ xét tương tác phi hóa Lộc Kỵ của cung tài bạch đại vận với tài bạch nguyên bàn, ở đây gọi là kích trên. Tức là từ tầng đại vận phi hóa kích lên tầng trên là nguyên bàn. Dưới kích trên có ảnh hưởng nặng, trên xuống dưới không gọi là kích mà gọi là ứng. Ví dụ cung tài bạch đại vận phi Kỵ chuyển Kỵ xung tài bạch nguyên bàn tọa cung dần có nghĩa là trong 10 năm đó có chuyện xấu về tài bạch thì đến lưu niên năm dần năm ngọ ứng nghiệm chuyện xấu đó. Bởi vì năm dần lưu niên mệnh nhập cung dần, năm ngọ lưu niên tài nhập cung dần. Đó gọi là kích trên ứng dưới của tứ hóa phái. Đây là cách xét đơn giản và là trường hợp riêng của Phi tinh khi chỉ xét tương tác phi hóa-cung.

Phi tinh tứ hóa xét tương tác tứ hóa của đại vận với tứ hóa của nguyên bàn để xét đoán cát hung (tương tác phi hóa-phi hóa). Như phần trên đã giới thiệu, phi hóa là cánh tay nối dài của cung và có thể đại diện cho cung để tương tác. Ví dụ cung tài bạch đại vận Hóa Kỵ hoặc Hóa Kỵ chuyển Kỵ nhập cung thìn. Cung tài bạch nguyên bàn cũng Hóa Kỵ hoặc Hóa Kỵ chuyển Kỵ nhập cung thìn hoặc cung tuất là có chuyện xấu về tài bạch bởi vì khi đó hai Kỵ của Tài bạch nguyên bàn và Tài bạch đại vận gặp nhau ở trục thìn tuất, chính là đồng cung tương bách hoặc lưỡng đầu kiến Kỵ. Cần nắm vững giao Lộc, giao Kỵ và giao Lộc Kỵ (tức Lộc Kỵ hợp tham đồng tinh diệu) để xét đoán cát hung chính xác.

b. Tam bàn thiên địa nhân
c. Kết nối tam bàn đoán sự kiện

Lương Nhược Du - Đường Kỵ chuyển Kỵ, Lộc chuyển Kỵ, Khoa Quyền chuyển Kỵ

Ba trụ cột của Tứ hóa phi tinh

Ba trụ cột của Tứ hóa phi tinh đó là: Cung chức, tinh diệu và hóa tượng. Tinh diệu là 18 sao bao gồm 14 chính tinh và 4 sao Tả Phụ Hữu Bật Văn Xương Văn Khúc. Hóa Tượng có nghĩa là Lộc Quyền Khoa Kỵ. Tất cả các phái đều dựa trên ba trụ cột này để diễn hóa suy luận. Thiếu một trụ cột đều không thể luận chính xác. 

Phi tinh Lương phái xây dựng trên hai Đường Chuyển Kỵ. Đường Chuyển Kỵ cho ta biết mối liên hệ giữa cung và cung. Nói cách khác, nó bao hàm Cung chức và Hóa tượng trong đó. Sau khi nắm vững đường Chuyển Kỵ bạn chỉ cần nắm vững tính lý tinh diệu là bạn hoàn toàn có thể luận đoán tự tin chính xác. Toàn bộ Độc Môn Tâm pháp của Lương phái chỉ nói về đường Chuyển Kỵ này thôi.

Do mối quan hệ giữa cung chức với cung chức bằng hóa tượng (Lộc chuyển Kỵ và Kỵ chuyển Kỵ) là có hạn và có quy luật có thể công thức hóa được, cho nên chúng ta cần nắm vững trước. Sau khi đã xét đoán kỹ lưỡng Cung chức và Hóa tượng, chúng ta mới xét đến Tinh diệu. Tính lý của Tinh diệu đa dạng phong phú linh hoạt và không có công thức cố định. Sau khi thành thạo Chuyển Kỵ và Xuyến Liên thủ pháp, việc kết hợp tính lý tinh diệu để luận đoán hoàn toàn do tài năng kinh nghiệm
và sự ứng biến của bạn.

Hệ thống phi tinh Lương phái và hai đường Chuyển Kỵ

Hệ thống Tử vi đẩu số tứ hóa phi tinh Lương phái do thầy Lương Nhược Du học từ lão sư Chu Thanh Hà. Sau đó thầy Lương Nhược Du truyền cho thầy Trương Thế Hiền. Hiện nay, thầy Trương Thế Hiền là người mở lớp trực tiếp truyền thụ Tứ hóa Phi tinh ở Đài Loan. Như chúng ta đã biết, Tử Vi tạm chia Nam Bắc phái. Việt Nam chúng ta thuộc Nam phái với cách xem nặng về tính lý của tinh diệu. Bắc phái tứ hóa phi tinh phổ biến ở Hương Cảng và Đài Loan với quan điểm mệnh lý và thủ pháp rất khác biệt so với Nam phái. Tử vi đẩu số Phi tinh do thầy Lương Nhược Du sáng lập và sau này gọi là Lương phái có tinh hoa nằm ở Chuyển Kỵ Pháp, cụ thể là hai đường Lộc chuyển Kỵ và Kỵ chuyển Kỵ. Nếu tóm gọn một câu về sự khác nhau của Tứ hóa và Phi tinh thì đó là câu: Tứ hóa là đường thẳng, Phi tinh là đường cong.

Như chúng ta đã biết có ba loại tứ hóa trong tử vi, đó là niên hóa (tứ hóa do can năm sinh tạo ra), tự hóa (tự hóa hướng tâm và li tâm) và phi hóa. Tử vi Nam phái chỉ dùng tứ hóa năm sinh. Còn cách xem của Tứ hóa phái (điển hình là Khâm Thiên Môn) đặt nặng lên Tự hóa hướng tâm và li tâm đó đều là đường thẳng. Số lượng các đường tự hóa trên mỗi lá số tử vi là khác nhau. Tương tác giữa chúng cũng không giống nhau. Cùng thêm với tính lý của tinh diệu sẽ tạo ra vô số tượng ý khác nhau và dự đoán cụ thể cũng sẽ khác nhau. Thế nhưng do nguyên tắc của tự hóa, không phải lá số nào cũng có tự hóa, có lá số có nhiều, có lá số có ít. Nói cách khác, không phải cung nào cũng có đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ bởi vì đơn giản là nếu cung đó không có sao nào có khả năng Hóa Kỵ thì cung đó không thể có Hóa Kỵ. Thế nhưng cung nào cũng có can cung, và cung nào cũng có thể phi Hóa Lộc Quyền Khoa Kỵ sang cung khác. Những đường phi hóa đó là những đường cong. Đường thẳng tự hóa chỉ là trường hợp riêng của đường cong phi hóa mà thôi. Tự hóa là cung đó phi hóa lên chính trục của nó. Nếu phi hóa sang đối cung thì đó là tự hóa hướng tâm. Nếu phi hóa về chính cung đó thì chính là tự hóa li tâm. Tự hóa trong phi tinh Lương phái đều coi là hóa xuất mà sau này bạn sẽ được tìm hiểu kỹ hơn.

Lương phái xây dựng trên hai đường Chuyển Kỵ đó là Lộc chuyển Kỵ và Kỵ chuyển Kỵ. Ví dụ cung A phi hóa Lộc nhập cung B, cung B phi hóa Kỵ nhập cung C, khi đó Lương phái gọi là A hóa Lộc B và B chuyển Kỵ sang C. Dựa vào hai đường Chuyển Kỵ này Lương phái liên kết các cung trong lá số, từ đó tìm ra mối quan hệ giữa các cung là tốt hay xấu, mức độ tốt xấu là cao hay thấp, kết hợp với tính lý tinh diệu mà rút ra dự đoán chính xác. Sư tổ Chu Thanh Hà của Lương phái cũng như thầy Lương Nhược Du đều là những người nổi tiếng giang hồ mệnh lý về dự đoán chính xác, tỉ mỉ, và quan trọng hơn là nắm rõ được Duyên khởi từ đâu, Duyên diệt khi nào. Hai đường Lộc chuyển Kỵ và Kỵ chuyển Kỵ cho biết khuynh hướng và mức độ của sự tình, cho biết dòng chảy Lộc Kỵ này rốt cuộc đi về đâu.

1. Lộc chuyển Kỵ:
- Cung A hóa Lộc nhập cung B (ta giỏi kiếm tiền)

- Cung B chuyển Kỵ nhập cung C (tiền tích lũy thành gia sản)

- Cung A hóa Lộc nhập cung C thông qua cung B (ta tích lũy được gia sản nhờ giỏi làm ăn)

Ví dụ cung mệnh hóa Lộc nhập cung Tài và cung Tài hóa Kỵ nhập cung Điền, thì khi đó có thể luận là người đó kiếm tiền (Tài Bạch) giỏi, và tích lũy (chuyển Kỵ) được gia sản (Điền trạch). Chuyển Kỵ ở đây tuy bản chất là Hóa Kỵ nhưng không có ý nghĩa giống như Hóa Kỵ. Chuyển Kỵ ở đây là chuyển tiếp Hóa Lộc tại B sang tiếp cung C, cho nên giống như Hóa Lộc do A tạo ra ở B được B chuyển tiếp sang C. Hóa Lộc như chiếc xe ô tô được A giao cho B, tại B chiếc xe đó được chuyển thành tiền mặt và tiền mặt đó đi tới cung C.

Chuyển Kỵ là phản ứng của cung B đối với Hóa Lộc từ cung A chuyển sang. Cung B có can cung B và có bốn khả năng phi hóa hay nói cách khác là bốn loại tâm tình phản ứng với hóa Lộc do cung A tạo ra.

Khi nói cung A hóa Lộc nhập cung B là bất kể tâm tình phản ứng của cung B, không biết cung B phản ứng ra sao. Khi nói cung A hóa Lộc nhập cung B chuyển Kỵ cung C thì kết quả cuối cùng Hóa Lộc tọa tại cung C đã được bao gồm tâm tình của cung B (chính là Chuyển Kỵ).

Nói cách khác, Lộc từ cung A chảy xuyên qua B tới C. Nói cách khác ba cung A B C có mối quan hệ xâu chuỗi đó là Hóa Lộc. Hóa Lộc giống như danh từ, còn khi Chuyển Kỵ đã là động từ. Hóa Lộc giống như tài sản hữu hình, Chuyển Kỵ giống như tiền mặt. Tiền mặt có thể đi khắp các ngân hàng, ô tô chỉ có thể chạy ngoài đường.

2. Kỵ chuyển Kỵ:
Là khi cung A hóa Kỵ nhập cung B, cung B hóa Kỵ nhập cung C. Khi đó tượng ý sẽ là cung A hóa Lộc nhập cung B chuyển Kỵ cung C. Tương tự như diễn giải ở trên về Hóa Lộc, ở đây là Hóa Kỵ. Ví dụ cung Mệnh Hóa Kỵ nhập cung Tài và chuyển Kỵ nhập cung Điền, có nghĩa là ta quan tâm để ý (Hóa Kỵ) kiếm tiền (Tài Bạch) sau đó tích lũy (chuyển Kỵ) vào gia sản (cung Điền Trạch).

Tượng ý có thể phân tích thành như sau:

- Cung A hóa Kỵ nhập cung B (ta ham kiếm tiền)

- Cung B chuyển Kỵ nhập cung C (tiền tích lũy thành gia sản)

- Cung A hóa Kỵ nhập cung C thông qua cung B (ta tích lũy được gia sản nhờ chịu khó kiếm tiền).

Tượng ý Kỵ chuyển Kỵ này có nghĩa là ba cung A B C (ở đây là Mệnh Tài và Điền) có mối liên hệ với nhau, và mối liên hệ đó là Kỵ.

Tượng ý này cũng là kiếm tiền và tích lũy gia sản, nhưng Kỵ chuyển Kỵ ở đây là câu chuyện kiếm tiền khó nhọc hơn, có được gia sản nhờ cần kiệm tích lũy. Còn Lộc chuyển Kỵ phía trên là ta kiếm tiền rất giỏi và rất dễ, sau đó ta không phung phí mà tích lũy được.

Đường Kỵ chuyển Kỵ

Đường Kỵ chuyển Kỵ cho biết sự kết nối các cung chức bằng mối quan hệ kiểu Kỵ. Thông thường mối quan hệ này thường được coi là xấu
. Số lượng Kỵ xuyến liên (kết nối) các cung thể hiện mức độ xấu và bất ổn của mối quan hệ này. Trước hết chúng ta cần nắm vững nguyên tắc Kỵ chuyển Kỵ và nguyên tắc dừng Kỵ chuyển Kỵ. Kỵ chuyển Kỵ xảy ra khi năng lượng Kỵ tràn đầy. Năng lượng Kỵ đó của năm sinh, của mệnh cung, và của số đông (trường hợp Truy Kỵ).

Truy Kỵ là trường hợp có cung phi Hóa Kỵ đuổi theo và gặp nhóm cung ta đang xét. Ví dụ ta đang xét nhóm cung A B C trong đó cung A hóa Kỵ nhập cung B và cung B chuyển Kỵ nhập cung C, thì có một cung D nào đó hóa Kỵ nhập cung C. Khi đó là cung D Truy Kỵ tới cung C, và cung C có thể tiếp tục chuyển Kỵ sang một cung khác. Truy Kỵ chỉ cần đồng cung là cung C (cung vừa nhận chuyển Kỵ từ cung B). Nhưng Truy Lộc Truy Quyền từ cung D tới cung C cần cùng tinh diệu với tinh diệu vừa nhận chuyển Kỵ tại cung C thì mới có thể tiếp tục chuyển Kỵ.

Nguyên tắc Kỵ chuyển Kỵ như sau:
Hóa Kỵ năm sinh đương nhiên chuyển Kỵ
Hóa Kỵ cung mệnh đương nhiên chuyển Kỵ
Truy Kỵ (không cần cùng tinh diệu) đương nhiên chuyển Kỵ

Hóa Kỵ năm sinh là quyền của thái tuế đương nhiên tiếp tục chuyển Kỵ. Ví dụ Hóa Kỵ năm sinh tọa cung A can Bính, như vậy Hóa Kỵ năm sinh tiếp tục chuyển Kỵ đến cung có sao Liêm Trinh (Bính hóa Kỵ tại Liêm Trinh). Tương tự như vậy mệnh Kỵ (hóa Kỵ xuất từ cung an mệnh) là quyền của Chủ quyền của Cực (tức cung Mệnh là lập cực của toàn lá số, cung Mệnh là lí do 11 cung chức còn lại tồn tại), cho nên mệnh Kỵ đương nhiên chuyển Kỵ. Truy Kỵ là trường hợp hai cung cùng hóa Kỵ vào một cung, cung đó nhận năng lượng Hóa Kỵ từ hai cung nên tràn đầy và sẽ tiếp tục chuyển Kỵ tới cung khác. Giống như hai cốc nước cùng đổ vào một cốc khác có cùng dung tích thì đương nhiên sẽ tràn nước ra ngoài.

Nguyên tắc dừng Kỵ chuyển Kỵ như sau:
Cung vừa được chuyển Kỵ lại tự hóa Kỵ xuất
Chuyển Kỵ tạo thành vòng lặp luẩn quẩn
Không có cung Truy Kỵ

Chuyển Kỵ dừng lại khi không thể tiếp tục chuyển nữa. Cung tự Hóa Kỵ xuất là cung đó tự phi Kỵ vào chính nó đương nhiên đứng im tại chỗ. Chuyển Kỵ tạo thành vòng lặp luẩn quẩn ví dụ cung A chuyển Kỵ sang B, cung B lại chuyển Kỵ về A, có chuyển nữa cũng trong vòng lặp đó mãi mãi không ra khỏi. Không có cung Truy Kỵ là trường hợp dừng chuyển Kỵ khi hết năng lượng. Tại cung vừa được chuyển Kỵ tới không có năng lượng để đi tiếp thì đương nhiên dừng chuyển Kỵ.

Đường Lộc chuyển Kỵ

Đường Lộc chuyển Kỵ cho biết sự kết nối các cung chức bằng mối quan hệ kiểu Lộc. Thông thường mối quan hệ này thường được coi là tốt. Số lượng Lộc xuyến liên (kết nối) các cung thể hiện mức độ tốt của mối quan hệ này. Trước hết chúng ta cần nắm vững nguyên tắc Lộc chuyển Kỵ và nguyên tắc dừng Lộc chuyển Kỵ. Lộc chuyển Kỵ xảy ra khi năng lượng Lộc tràn đầy. Năng lượng Lộc đó của năm sinh, của mệnh cung, của Tự hóa Lộc và của số đông (trường hợp Truy Lộc cùng tinh diệu).

Nguyên tắc Lộc chuyển Kỵ như sau:
Hóa Lộc năm sinh đương nhiên chuyển Kỵ
Hóa Lộc cung mệnh đương nhiên chuyển Kỵ
Tự hóa Lộc đương nhiên chuyển Kỵ
Truy Lộc (nhất thiết phải cùng tinh diệu) đương nhiên chuyển Kỵ

Hóa Lộc năm sinh là quyền của thái tuế đương nhiên tiếp tục chuyển Kỵ. Ví dụ Hóa Lộc năm sinh tọa cung A can Bính, như vậy Hóa Lộc năm sinh tiếp tục chuyển Kỵ đến cung có sao Liêm Trinh (Bính hóa Kỵ tại Liêm Trinh). Tương tự như vậy mệnh Lộc (hóa Lộc xuất từ cung an mệnh) là quyền của Chủ (tức cung Mệnh là lập cực (Chủ) của toàn lá số, cung Mệnh là lí do 11 cung chức còn lại tồn tại), cho nên mệnh Lộc đương nhiên chuyển Kỵ. Tự Hóa Lộc là cung đó tự phi Lộc về chính nó, Hóa Lộc này là phi.

Lộc đặc biệt và được coi như nguồn Lộc hiện hữu. Nếu niên Lộc là kho tiền quốc gia thì Tự hóa Lộc có thể coi là kho tiền địa phương. Truy Lộc là trường hợp hai cung cùng hóa Lộc vào một tinh diệu, tinh diệu đó nhận năng lượng Hóa Lộc từ hai cung nên tràn đầy và sẽ tiếp tục chuyển Kỵ tới cung khác. Giống như hai cốc nước cùng đổ vào một cốc khác có cùng dung tích thì đương nhiên sẽ tràn nước ra ngoài. Chuyển Kỵ ở đây là dòng chảy là hướng đi của Hóa Lộc.

Nguyên tắc dừng Lộc chuyển Kỵ như sau:
Cung vừa được chuyển Kỵ lại tự hóa Kỵ xuất
Lộc chuyển Kỵ tạo thành vòng lặp luẩn quẩn
Không có cung Truy Lộc cùng tinh diệu

Lộc chuyển Kỵ dừng lại khi không thể tiếp tục chuyển nữa. Cung tự Hóa Kỵ xuất là cung đó tự phi Kỵ vào chính nó đương nhiên đứng im tại chỗ. Chuyển Kỵ tạo thành vòng lặp luẩn quẩn ví dụ cung A chuyển Kỵ sang B, cung B lại chuyển Kỵ về A, có chuyển nữa thì Lộc cũng trong vòng lặp đó mãi mãi không ra khỏi. Không có cung Truy Lộc cùng tinh diệu là trường hợp dừng chuyển Kỵ khi hết năng lượng. Tại cung vừa được Lộc chuyển Kỵ tới không có năng lượng để đi tiếp thì đương nhiên dừng chuyển Kỵ. Khác với Truy Kỵ, Truy Lộc nhất định phải cùng tinh diệu mới có thể tiếp tục chuyển Kỵ.


Đường Quyền chuyển Kỵ 

Có Kỵ chuyển Kỵ, có Lộc chuyển Kỵ thì cũng có Quyền chuyển Kỵ. Nhưng Quyền không thể độc lập chuyển Kỵ mà Quyền phải bám theo đường Lộc chuyển Kỵ mà đi. Cho nên nếu gọi chính xác là Truy Quyền chuyển Kị chứ không có Quyền chuyển Kỵ độc lập. Nói cách khác, sau khi xây dựng đường Lộc chuyển Kỵ xong thì xét tất cả Truy Quyền đi cùng thì đó là đường Quyền chuyển Kỵ. Khi mới học thì chỉ cần xét hai đường Kỵ chuyển Kỵ và Lộc chuyển Kỵ là đủ. Đường Quyền chuyển Kỵ làm rõ nét hơn cho đường Lộc chuyển Kỵ mà thôi. Quyền và Khoa trong tứ hóa tượng đứng hàng nhân, trong khi Lộc đứng hàng thiên còn Kỵ đứng hàng địa. Lộc Kỵ có tư cách quyết định đại cục, khi đại cục đã định thì Quyền và Khoa là lực lượng củng cố. Nói cách khác Lộc Kỵ quyết định chất, còn Quyền Khoa quyết định lượng. Lộc Kỵ cho biết đẹp hay xấu, Quyền Khoa sẽ cho biết nhiều hay ít, đẹp nhiều hay đẹp ít, xấu nhiều hay xấu ít. Xét về tính cách con người thì Quyền cho biết nghị lực vươn lên, Khoa cho biết lý trí sáng suốt. Nếu nhiều Lộc thì tuy may mắn lạc quan nhưng phù phiếm không bền, cần có Quyền củng cố mới kiên định tiến hành và phát triển vượt qua sóng gió khó khăn. Lộc Quyền chủ khởi phát và lớn mạnh, nhưng Quyền không phải khởi nguyên cho nên phải bám theo đường Lộc chuyển Kỵ mà đi. Khoa Kỵ chủ thế thu tàng, cho nên không có đường Khoa chuyển Kỵ.

Lương Nhược Du - Xuyến liên thể dụng

Bất cứ cung nào cũng có khả năng phát động phi hóa, nhưng không phải lúc nào cũng có quyền phát động phi hóa. Giống như cá nhân chúng ta trong biển người đều có thể phát ngôn, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng nắm được micro phát ngôn cho cả biển người nghe. Quyền phát ngôn đó thuộc về Thái Tuế, quyền phát ngôn đó thuộc về Mệnh cung, và quyền phát ngôn đó thuộc về những cung được lựa chọn làm Thể Dụng. Đại vận và lưu niên thái tuế nắm thời lệnh, cho nên cũng có quyền phát ngôn, và khi người nắm lệnh phát ngôn, không ai có thể ngó lơ. Bất cứ cung nào cũng có thể được lựa chọn làm Thể Dụng, giống như phép chọn dụng thần của bốc dịch, cho nên bạn cần hiểu Thể Dụng là linh hoạt. Những công thức Thể Dụng giới thiệu trong sách này là cơ bản, và bạn hoàn toàn có thể lựa chọn bộ Thể Dụng của riêng mình nếu thấy đúng và hợp lý.

Đầu tiên cần nắm vững cung Thể và cung Dụng là gì. Cung Thể là một cung hoặc nhiều cung trực tiếp cho biết vấn đề ta cần xét, ví dụ xét gia đạo thì cung Điền là cung Thể. Cung Dụng là những cung có liên quan trực tiếp tới vấn đề ta xét. Ví dụ cung mệnh cung phúc cung di là ba cung liên quan trực tiếp tới vấn đề gia đạo ta xét. Cho nên những cung có tính chất giống nhau được dùng là nhóm cung có cùng chức năng, chức năng Thể hoặc Dụng. Việc phân thể dụng cũng như phân ra âm dương, như phân ra tay trái và tay phải, hai tay vỗ vào nhau mới thành tiếng. Khi thể va chạm tương tác với dụng thì mới xảy ra sự kiện. Cảnh sát gặp tội phạm mới xảy ra sự kiện bắt bớ giam cầm nghiêm trọng. Cảnh sát gặp cảnh sát là cùng phe, không xảy ra sự kiện bắt bớ giam cầm. Sau này khi xem vận, bạn phải đặc biệt lưu ý điều này. Như xem tính cách, cần xuyến liên ba cung là mệnh phúc và tật. Ba cung này là một phe, cho dù coi đó là Thể hay Dụng. Bởi vì ba cung này có mối quan hệ nhất lục cộng tông. Mệnh là 1 thì tật là 6, tật là 1 thì phúc là 6. Cho nên ba cung này cùng tông, có thể xếp chung với nhau. Khi đó Tật và Phúc làm rõ nghĩa cho mệnh. Và xuyến liên ba cung để đoán định đương nhiên đầy đủ và chính xác hơn chỉ xem một cung bất kỳ trong ba cung đó. Giống như ta có ba góc nhìn về một vật thể, ta có ba thông tin về một sự kiện, đương nhiên sự xét đoán sẽ đầy đủ và chính xác hơn.

Ta hiểu ở đây có thể tìm mối liên hệ giữa các cung Thể, coi nó là nhóm cung Thể. Hoặc có thể tìm mối liên hệ giữa các cung Dụng, coi nó là nhóm cung Dụng. Nhưng các nhóm đó chưa tạo ra sự kiện. Sự kiện được xảy ra khi có sự va chạm tương tác giữa cung Thể và cung Dụng. Xuyến liên Thể Dụng là đi tìm mối liên hệ giữa cung Thể và cung Dụng bằng hai đường Lộc chuyển Kỵ và Kỵ chuyển Kỵ. Nếu có nhiều cung Thể, hoặc nhiều cung Dụng, ta vẫn cứ xét tương tác đôi một giữa hai cung Thể Dụng. Sau đó kết nối tất cả các tương tác đôi một nói trên thành bức tranh chung để đánh giá.

Số lượng Lộc hay Kỵ trong xuyến liên thể dụng cho ta biết cường độ tốt xấu của các liên kết đó.

Xuyến liên thể dụng cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Dụng quy về Thể
Dụng bất ly Thể
Dụng xung phá Thể

Nói tóm lại làm sao cho Dụng gặp được Thể. Trong nam phái ta có cung tý xung cung ngọ, khi đó cung tý gặp cung ngọ bằng mối quan hệ tương xung. Tương tự như vậy cung tý gặp cung sửu bằng mối quan hệ nhị hợp. Cung tý gặp cung thìn bằng mối quan hệ tam hợp. Nhưng trong tứ hóa phi tinh, các cung có thể gặp nhau bằng Lộc hoặc Kỵ. Ví dụ một cung A hóa Kỵ nhập cung B là cung A gặp cung B bằng mối quan hệ Kỵ. Cung A hóa Kỵ nhập cung B sau đó chuyển Kỵ sang cung C là cung A gặp cung C bằng mối quan hệ Kỵ. Cung A hóa Kỵ nhập cung B, cung C cũng hóa Kỵ nhập cung B, khi đó cung A gặp cung C tại cung B bằng mối quan hệ Kỵ. Cứ như vậy cung Dụng có các cách gặp cung Thể nhìn qua công cụ Kỵ sẽ có những trường hợp như sau (xem ví dụ cụ thể trên hình vẽ tương ứng):
Đồng cung tương bách (bách trong từ bức bách nghĩa là chèn ép nhau)
Lưỡng đầu kiến Kỵ (hai cung xung nhau đều có Kỵ)
Kỵ xung phá Thể (Kỵ của cung dụng tới đối cung với cung Thể)

Sau khi xuyến liên được cung Dụng và cung Thể bằng Kỵ hoặc Lộc, cần đếm số lượng Kỵ hoặc Lộc trong xuyến liên này. Có bao nhiêu Kỵ, có bao nhiêu Lộc đi xuyên qua các cung này. Số lượng Kỵ hay Lộc thể hiện cường độ xấu tốt của xuyến liên.

Cách đếm số lượng Kỵ trong xuyến liên (cách đếm số lượng Lộc là tương tự):
Số lượng Kỵ trong một trục được tính bằng cộng gộp hai đầu, ví dụ đầu tý có 3 Kỵ, đầu ngọ có 2 Kỵ thì coi như trục tý ngọ có 5 Kỵ, và coi như đầu tý có 5 Kỵ và đầu Kỵ cũng có 5 Kỵ. Ta hiểu là Kỵ ở bất cứ đầu nào trong trục cũng có thể ảnh hưởng trong toàn trục.
Không tính Tự hóa Kỵ xuất vào số lượng Kỵ trong xuyến liên, nhưng khi luận thì lưu ý luận tượng Kỵ xuất. Tượng Kỵ xuất là gì thì xem cụ thể trong phần Kỵ xuất.
Lưu xuất Kỵ trong các trục được cộng vào số lượng Kỵ trong xuyến liên. Ví dụ cung tý tọa 3 Kỵ và cung ngọ tọa 2 Kỵ. Trong khi đó cung tý lưu xuất Kỵ tới cung ngọ, như cung giáp tý mà cung ngọ có sao Thái Dương thì tý lưu xuất Kỵ sang ngọ. Khi đó trục tý ngọ có tổng cộng 2 + 3 + 1 = 6 Kỵ.
Không tính số Kỵ bị trùng lặp Hóa Kỵ và chuyển Kỵ. Ví dụ cung Điền hóa Kỵ nhập cung Phúc, cung Phúc hóa Kỵ nhập cung Di. Khi xem gia đạo hưng suy, cung Điền cung Phúc đều là những cung có quyền phát động Hóa Kỵ. Thế nhưng ở đây có sự trùng lặp Hóa Kỵ từ Phúc sang Di và Chuyển Kỵ từ Phúc sang Di, cho nên cả chuỗi Điền-Phúc-Di chỉ tính có 1 Kỵ chứ không phải 2 Kỵ.

Theo như cách tính số lượng Kỵ trong xuyến liên trên đây, thì nếu trong quá trình xuyến liên, càng có nhiều lưu xuất Kỵ thì số lượng Kỵ càng nhiều, có nghĩa là xấu. Lưu xuất Kỵ trong các trục hàm ý mâu thuẫn nội tại, tự mâu thuẫn bên trong vấn đề làm cho vấn đề càng xấu đi.

Lương Nhược Du - Yếu lĩnh luận mệnh

1. Luận gia đạo cách cục: Lấy điền trạch làm Thể, Mệnh cung, phúc đức, thiên di làm Dụng. Khi luận kết cấu của Hóa Lộc, bởi vì kết cấu của Hóa Lộc chuyển Kị, truy Lộc, truy Quyền tất phải đồng tinh diệu là vô cùng nghiêm cẩn, cho nên có một số cung vị tương quan có thể làm công cụ bắc cầu cung vị, ví dụ, Tật ách (cung tông lục vị của mệnh cung), Phu thê (Phúc đức tam phương, Tài bạch của phúc đức). Huynh đệ (Tài bạch của điền trạch, thu nhập gia đình), Phụ mẫu (việc hưng gia trong tay cha).

2. Luận cách cục tài sản của mệnh tạo do nỗ lực của hậu thiên mà có:

Lấy điền trạch làm Thể, ngoài luận thuật như trên cùng các cung khác, luận Lộc còn có thể gia thêm Tài bạch, Quan lộc, Nô bộc tam phương, là nỗ lực hậu thiên của mệnh tạo và thêm trợ lực của nhân tế. Nhưng cần xét ưu khuyết của tính cách.

3. Luận cách cục của thành tựu sự nghiệp: Lấy Huynh đệ làm Thể, Mệnh cung, Phúc đức, Thiên di làm Dụng.

Khi luận cung vị bắc cầu của kết cấu của Hóa Lộc, Tật ách (cung tông lục vị của mệnh cung), Phu thê (Phúc đức tam phương, Tài bạch của phúc đức), Huynh đệ (tài bạch của điền trạch, thu nhập gia đình), Phụ mẫu (phúc của trưởng bối), Nô bộc (phúc của nhân tế), Quan lộc (năng lực công việc, Nhất lục cung tông), Tài bạch (nguồn gốc của tài), Tử nữ (vãn bối, thuộc hạ, đối tượng hợp tác), Điền trạch (phúc tài sản, gia đạo).

4. Luận cách cục của sức khỏe: Lấy tật ách làm Thể, Mệnh cung, huynh đệ, phúc đức, thiên di, tử nữ làm Dụng.

5. Luận cách cục của học hành học vấn: Lấy Phụ mẫu làm Thể, Mệnh cung, phúc đức, thiên di làm Dụng. Khi luận cung vị bắc cầu của kết cấu Hóa Lộc, Tật ách (cung tông lục vị của mệnh cung), Nô bộc (cạnh tranh khảo thí vị), Quan lộc (Là công việc, chức vị, hoặc tu nghiệp tại chức), Điền trạch (thu tàng cung, nơi kéo dài duyên phận).

6. Luận cách cục thọ nguyên: Lấy Phúc đức làm Thể, Mệnh cung, thiên di, tử nữ, tật ách, huynh đệ, điền trạch làm Dụng.

7. Luận cách cục của tài hoa căn khí: Căn khí cung (Phúc đức, Thiên di, Tử nữ) làm Thể, Mệnh cung tật ách làm Dụng.

Giải thich: Nhất lục cung tông. (Sự liên quan của cung thứ nhất và cung thứ sáu)

Lấy mệnh cung là nhất (1), Tật ách cung là lục (6) làm khái niệm để giải thích.....

Phúc đức là nhất (1), Tử nữ là lục (6).....

Mệnh: Nhất (1) là tâm, vô hình.

Tật ách: Nhất (1) là thân, hữu hình.

Phúc đức là nhất (1), vô hình.

Tử nữ là lục (6), Phúc đức hữu hình chỉ tử nữ tốt xấu.

Tich thiện chi gia, tất có con cháu giỏi.

Tật ách tốt xấu? Xét phúc đức thì biết. Phúc đức, trạng thái tinh thần.

Phúc đức tốt xấu? Xét Tử nữ thì biết. Tử nữ, Đời (thế hệ) kế tiếp.

Tử nữ tốt xấu? Xét Quan lộc thì biết. Vận thế, nỗ lực công việc.

Quan lộc tốt xấu? Xét huynh đệ thì biết. Công việc thành hay không, xét huynh đệ.

Huynh đệ tốt xấu? Xét Thiên di thì biết. Thành tựu, xét (thiên di) quan hệ nhân tế quảng đại có hay không cổ vũ trợ giúp mệnh tạo.

Thiên di tốt xấu? Xét Phụ mẫu thì biết. Quan hệ nhân tế quảng đại, là từ phụ mẫu, học thức của mệnh tạo, tác nhân tu dưỡng mà có.

Phụ mẫu tốt xấu? Xét Tài bạch thì biết. Là xem thái độ sử dụng tiền bạc, là biết làm người tốt hay xấu.

Tài bạch tốt xấu? Xét điền trạch thì biết. Xem trạng thái hoàn cảnh gia đình là biết.

Điền trạch tốt xấu? Xét Phu thê thì biết. Xem nữ chủ nhân, người tề gia là biết.

Phu thê tốt xấu? Xét Nô bộc thì biết. Đối nhân sử thế tốt hay không, có hay không người vợ tốt là biết.

Nô bộc (bằng hữu) tốt xấu? Xét mệnh thì biết. Cá tính của mệnh tạo tốt, đương nhiên bằng hữu tính khí cũng tốt.