Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018

Chế hóa trong tử vi (Alexphong)

Lục sát tinh gồm có 3 cặp sao: Không Kiếp, Hỏa Linh, và Kình Đà. 

Không Kiếp chuyên khắc phá Tử Phủ. Trong khi Tử Phủ không hề ngại Hỏa Linh. Không Kiếp hại Tử Phủ đại diện thế lực chính quy, nhưng rất hợp Phá Quân âm thủy về tính chất cũng như ngũ hành. Thứ nhì, là hợp Thiên Tướng dương thủy về tính lý nhưng ngũ hành kém hợp hơn Phá Quân vì âm dương sai khác nên khắc chế không hiệu quả. Hơn nữa, dù sao Thiên Tướng cũng là chính quy, khó có thể hợp sự vô nguyên tắc của Không Kiếp như Phá Quân được. 

Muốn chế Không Kiếp, phải dùng Quang Quý. Chế được rồi muốn hóa được ra thành công thành quả thì phải có Khôi Việt. Cho nên chế hóa Không Kiếp cần Quang Quý Khôi Việt. Nói chế hóa cũng không hẳn đúng, mà thực ra đó là cách cục mà sát tinh thành công, tính sát đắc dụng mà quý hiển.

Hỏa Linh thì có khác một chút, có thể nói cùng Không Kiếp tạo thành cặp phản đề. Hỏa Linh là hỏa nhưng có tượng là ngọn lửa, tức ít ra còn có lúc là lửa thật, chứ không phải hỏa khí hỏa tính như Không Kiếp. Cho nên gán Hỏa Linh cho dương, Không Kiếp cho âm không phải không có lý. Hỏa Linh là khắc tinh của Cơ Nguyệt Đồng Lương, bộ sao thủy mộc có tính chất ôn hòa lương thiện. Gặp Hỏa Linh như đồng khô cỏ cháy, như người lương thiện nhưng suốt ngày cáu bẳn thành ra khó nói là lương thiện. Nhưng Hỏa Linh hợp với Tham Lang. Hỏa Linh là ngọn lửa cho tham vọng của Tham Lang bùng cháy. Với phụ tinh, Hỏa Tinh là khắc tinh của Bạch Hổ, nhưng khắc tinh ở đây không phải chế hóa con hổ này mà làm con hổ này phát điên cắn phá lung tung. Cho nên nếu thấy Hổ lại thấy Hỏa Tinh là coi chừng tác họa của Hổ. Khi đó, cần có Thiên Phúc thì có thể hóa giải được họa Hỏa Tinh+Bạch Hổ.  Muốn chế hóa Hỏa Linh, cần dùng Thai Tọa Quan Phúc. Ở đây Quan Phúc để chế, có thể chế bớt hỏa tính của Hỏa Tinh. Thai Tọa để hóa, có thể đưa tổ hợp Quan Phúc Hỏa Linh đến thành công.

Đến đây, ta nắm vững được cách chế hóa tứ sát thuộc hành hỏa là Hỏa Linh Không Kiếp. Nhưng đừng nhầm thuốc nọ cho bệnh kia. Dùng Khôi Việt cho Hỏa Linh, và dùng Quan Phúc cho Không Kiếp là đại họa râu ông nọ cắm cằm bà kia. Sự đời nhiều thứ hao hao, sai một li là đi một dặm. Khôi Việt Hỏa Linh là cách cục sét đánh đỉnh đầu, trời đã phải đánh thì biết nó trái lý âm dương tới mức nào. Còn Quan Phúc Không Kiếp là những Quan Phúc phải chịu thử thách ghê gớm (theo lý của tác giả VDTT) đạo đức làm người, chứ không phải những thầy tu đạo mạo như Quan Phúc Hỏa Linh. Tu là phải có đèn nến hương khói. 

Cuối cùng là bộ Kình Đà. Bản chất sát tinh của Kình Đà có khác so với tứ sát còn lại. Với chính tinh, Kình Đà là khắc tinh của Nhật Nguyệt, nhưng rất hợp với Thất Sát. Vì Kình Đà chủ sự sai lệch, đứng hai bên Lộc Tồn chủ sự chuẩn mực. Đà là muộn quá, còn Kình là sớm quá. Đà là tự kỷ còn Kình là tăng động. Đều không hợp với Nhật Nguyệt. Nhật Nguyệt định thời gian thì phải chuẩn mực cần đi với Lộc Tồn, đi với Kình Đà thì đồng hồ sai, lịch xé nhầm. Xét về ngũ hành thì tính hợp và khắc của tinh đẩu rất phong phú đa dạng. 

Mỗi chính tinh quản một cặp sao. Phá thì quản Không Kiếp, Tham thì quản Hỏa Linh, Sát thì quản Kình Đà. Nhưng Hỏa Linh Không Kiếp đều có các bộ sao đi kèm để đưa đến thành công là Thai Tọa Quan Phúc và Quang Quý Khôi Việt, còn với Kình Đà là gì.

Với Kình Đà, là bộ Long Phượng. Trong đó, Kình Dương hợp với Các, vì Kình là bay lên, Phượng là đôi cánh, bay lên mà không có cánh thì lượn làm sao. Đà La hợp với Bạch Hổ vì Đà La là chìm xuống nằm xuống, mãnh hổ nằm phục xuống rình con mồi và trốn thợ săn. 

Thất Sát hợp Kình Đà cho thấy bộ Sát Phá Tham rất hợp Long Phượng Hổ Cái. Ta biết Sát Phá Tham có thể coi là điểm trũng của lá số tử vi, nơi hàm chứa những gì xấu xa tội lỗi nhất, nếu Tử Phủ là đỉnh núi cao thì Sát Phá Tham là vũng lầy, cho nên Sát Phá Tham rất cần thành công (Phượng Các) để khẳng định mình hữu dụng, rất cần chính danh (Long Trì Bạch Hổ) để được thừa nhận mình là quân chính quy chứ không phải bọn trộm cướp võ biền. Sát Phá Tham khát khao Long Phượng Hổ Cái hơn bất cứ nhóm sao nào khác. Điều đó ẩn chứa sau sự chế hóa của Kình Đà.

Tử Phủ Vũ Tướng cần Tuế Hổ Phù, sự chính danh, sự chính thống của vương triều hơn bao giờ hết. Tử Phủ Vũ Tướng không cần tiền, không cần quyền, chỉ cần chính danh. Chính danh sẽ có quyền tiền. 

Sát Phá Tham cần Phượng Các, sự thành công từ gian khó, sự thành công từ đối nghịch. Đối nghịch Tang Tuế Điếu mà không có thành công thì nói không ai nghe. Phản truyền thống, phản trào lưu mà không có thành công thì không ai ủng hộ. Nên với Sát Phá Tham thì Phượng Các mới là ưa thích nhất, thứ nhì mới là Tuế Hổ Phù. Cho thấy bộ Tang Phượng hành động rất mạnh mẽ, mạnh mẽ nhất trong vòng thái tuế.

Thái Dương, Cự Môn cần Thiên Không, thích tam minh Đào Hồng Hỷ. Lại như Nhật Nguyệt, ta hỏi Nhật Nguyệt có hợp với Long Phượng Hổ Cái. Câu trả lời là không. Vì Nhật Nguyệt không hợp Kình Đà, càng ghét Diêu Đà Kỵ tam ám làm lu mờ ánh sáng của Nhật Nguyệt. 

Thái Dương cần tam minh Đào Hồng Hỷ, bên đó lấp ló ẩn hiện Thiên Không. Thái Dương cần Thiên Không, cần khoảng trống, cần khoảng trời để tỏa sáng hơn là Long Phượng Hổ Cái. Người xưa ẩn ý để Thiếu Dương cùng Thiên Không để phò trợ cho Thái Dương, lại nói xa gần cả Đào Hồng Hỷ là tam minh.

Thái Âm, cùng bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, thích Âm Long Trực, thích tứ Đức. Tục ngữ hay gọi là âm đức là vì thế. Cự Nhật cần sáng, sáng mới là cốt yếu của Nhật, sau đó mới cần đức. Thái Âm cần tứ đức, đức mới là nền tảng của Nguyệt, sau đó mới cần sáng. Cho nên, nếu Thái Dương đi cùng tứ đức, Thái Âm đi cùng tam minh thì cũng tốt nhưng xếp sau trường hợp Dương Minh và Nguyệt Đức.

Thái Dương cần tam minh, thiên không.
Thái Âm cần tứ đức, thiếu âm.

Chỉ có một thứ duy nhất hạn chế được cả lục sát tinh và tam ám. Đó là Không Vong.

-----------------------------------

Linh Tinh đi cùng Đà La hai sao âm, tượng là sét giáng xuống hoặc anh linh sa xuống. Còn Hỏa Tinh dương phải đi với Kình Dương dương ngọn lửa bốc lên cao. Chứ không thể Linh Tinh Kình Dương một âm một dương trái khoáy, tia sét phóng ngược lên trời, Hỏa Tinh Đà La một âm một dương trái khoáy ngọn lửa bốc chui xuống thấp được. Cho nên trong cách cục kinh điển có cách cục Xương Linh Đà Vũ chứ không có Xương Linh Kình Vũ hay Xương Hỏa Đà Vũ. Người am hiểu sẽ tự hỏi vì sao trong cách cục Xương Linh Đà Vũ chỉ có sao Văn Xương là sao dương, còn lại toàn sao âm ?

Cơ bản độc giả cần phân biệt: đồng bọn và người yêu. Đồng bọn phải cùng tính âm dương cùng sở thích như bóng đá, lý số, ăn nhậu thì chơi với nhau mới thú, chứ đồng bọn mà người thích bóng đá kẻ thích bóng chày thì không nói chuyện với nhau được. Còn người yêu và người phối ngẫu phải trái tính âm dương, bổ khuyết cho nhau, người thâm trầm thì hay yêu người hoạt ngôn, người phóng khoáng thì hay yêu người ngăn nắp, đó là phối. Trong tử vi tam hợp là đồng bọn, nhị hợp là phối ngẫu.

Phải nắm thật vững tính âm dương của đồng bọn và người yêu mới hiểu được cách phối sao.

Quang Quý không hề là đạo đức, chỉ là sự may mắn, sự giác ngộ. Đạo đức do các sao tứ đức thủ diễn.

-------------------------------------

các sao thổ như tử vi, thiên lương ít sợ hóa kỵ vì lẽ thổ khắc thủy và cũng không bao giờ hóa kỵ cả.

Tử Phủ thích Tả Hữu hơn Xương Khúc.
Nhật Nguyệt thích Xương Khúc

TPVT SP không ngại Hóa Kỵ bằng Cự Nhật Nguyệt Tham nhưng Cự Nhật Nguyệt Tham lại không sợ Tuần Triệt như Tử Phủ. Rồi mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương không hợp Sát Phá Tham

Tuế Phù Hổ (Tứ Linh chính vị)
Tang Tuế Điếu (Đặc sản Lộc Mã giao trì).

Nói chung, âm dương nghịch lý chỉ hợp cho mệnh Cự Nhật Cơ Nguyệt Đồng Lương. Khi đó có Tam Minh Tứ Đức thủ diễn. Còn âm dương thuận lý hợp cho Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham.

Phủ ngại Tuần, Tướng ngại Triệt. Tất nhiên, cả hai chẳng ưa gì Tuần Triệt, ở đây chỉ cân phân cụ thể hơn.
Địa Không ngại Tuần, Địa Kiếp ngại Triệt.

Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham không sợ Kỵ mà chỉ sợ Tuần Triệt, còn Cơ Nguyệt Đồng Lương ngược lại chỉ sợ Kỵ mà chẳng ngại Tuần Triệt

Vô Chính Diệu thích Triệt hơn Tuần ? Mệnh Không thân Kiếp không hợp Đồng Lương. Mệnh Triệt thân Tuần cũng không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương mà hợp VCD. Điều này càng khẳng định sự tương ứng giữa Mệnh Không thân Kiếp và mệnh Triệt thân Tuần. Phải chăng Triệt hợp với Không còn Tuần hợp với Kiếp ?

VCD hợp Triệt hơn Tuần, đến giờ bạn hiểu thêm Triệt là đóng, vì đóng nên ngôi nhà trống vô chính diệu đã có cửa không còn trống nữa. Qua đó, bạn hiểu thêm Tuần là mở. Nghe sao giống Triệt là tách ra, Tuần là gom vào, mà lại rất hợp lý

Với chính tinh hãm địa, hoặc cung VCD, nhận định ban đầu là xấu. Nhưng khi có Tuần Triệt án ngữ, cung đó được coi là tốt, nhưng bạn chú ý, người xưa mô tả cái tốt này rất hay. Cái tốt này không thô lỗ chóng vánh ngay tắp lự, mà sách viết "trước khó sau dễ" tức tốt lên từ từ. Tuần Triệt cải hóa cung nó tác dụng một cách từ từ. Qua đó cũng hiểu cho hoàn cảnh của chính tinh miếu địa gặp Tuần Triệt, bạn có thể luận trước tốt sau xấu, xấu đi từ từ. Nhưng luôn luôn có hạn chế cho cung có Tuần Triệt như "trước khó kiếm tiền sau dễ, nhưng không thể giàu có lớn được". Khi Tuần Triệt đóng cung phụ mẫu. Thì nhận định tốt xấu của cung để đoán định sự giàu nghèo sang hèn của cha mẹ của cha mẹ nhưng dù tốt hay xấu thì cũng khắc và xa song thân. Đó cũng là mẫu số chung khi Tuần Triệt đóng cung lục thân.
Ngoại trừ một trường hợp, đó là cung VCD. Cung VCD có ba mức tốt xấu. Tệ nhất là VCD, tốt hơn là VCD có Tuần Triệt án ngữ, đẹp nhất là VCD vừa có Tuần Triệt án ngữ vừa có Nhật Nguyệt sáng sủa xung chiếu hoặc hợp chiếu. Tuần Triệt lúc đó được hiểu như lực lượng câu hút ánh sáng đồng thời giữ ánh sáng lại cho ngôi nhà trống.


Tính chất thời gian của Tuần Triệt giống tính chất thời gian của sát tinh. Bạn có chú ý, sát tinh miếu địa chỉ tốt ban đầu, càng về sau càng xấu. Không những sát tinh, kể cả bại tinh đắc địa cũng có cùng tính chất. Tại sao tử vi lại áp đặt tính chất này lên sát bại tinh mà không phải ngược lại là trước xấu sau tốt. Có lẽ phương Đông trọng hậu hơn. Cái gì tốt nhưng phải bền mới cho là tốt, cái gì xấu nhưng thoáng qua thì họ cho là thử thách. Cả đời khổ thế nào cũng được, nhưng cuối đời tốt đẹp coi như cuộc đời có hậu, hơn nhiều cuộc đời sướng trước khổ sau. Hoặc có thể đó là quy luật của vũ trụ này mà người phương Đông khám phá ra, cái gì thuộc về bản chất sẽ bộc lộ sau cùng. Cho nên bản chất của sát tinh vẫn là xấu, không thể thay đổi. Ngược lại, với Thái Dương hãm địa, sách cho rằng càng về già càng tốt hơn.
Phải chăng, người xưa coi miếu hãm là cái vỏ ngoài, còn bản chất tinh đẩu là bên trong. Đây là điểm khá thú vị của tử vi nhưng người mới học thường bỏ qua.

-----------------------------------
Đào Hồng chỉ chủ tình dục khi và chỉ khi gặp Thai. Đào Hồng chỉ chủ ngoại tình khi gặp Phục Binh. Còn nếu không gặp hai sao trên Đào Hồng chỉ mang ý nghĩa đẹp sặc sỡ, duyên nói chung. Đừng mới thấy Đào Hồng đã phán bừa. Đào Hồng Không Kiếp không có tình dục mà là đại họa vì khi đó Đào là Kiếp Sát còn Hồng Loan là máu. Đào Diêu chủ dâm hơn chủ dục. Thai Phục Vượng Tướng là cách cục quan hệ tình dục lén lút, không có Đào Hồng đi kèm thì có khả năng không có tình yêu hoặc có yêu nhưng không bền. Còn Đào Hồng đi cùng tam ám Diêu Đà Kỵ mới có sự dối lừa, vì tam ám chủ dối lừa, nếu không có Đà Kỵ thì không có sự dối lừa nhau.


Trong tử vi có một tuyệt kĩ liên quan tới tình ái đó chính là Tam minh.
Tam minh gồm có: Đào Hồng Hỉ.

Đào Hoa mang theo sự quyến rũ về mặt giới tính. Thứ thuộc về bản năng gốc của con người.
Hồng Loan chính là sự thăng hoa về tinh thần trong tình ái. Yêu chứ, nhưng không phải là chiếm hữu bằng bản năng gốc. Đôi khi chỉ đơn giản là sự đồng điệu về mặt tâm hồn.
Thiên hỉ thì sao? Thiên hỉ quan trọng lắm. Tôi cho rằng Thiên hỉ quan trọng nhất trong tam minh. Là bởi vì Thiên Hỉ ẩn tàng trong nó sự kết tinh/ kết quả của tình yêu.

Đã từng viết một bài về Đào Hoa Địa Kiếp - Nửa hồn thương đau
Lại từng viết bài về Hồng Không Cô Quả - Em Khoảng Trống và Tôi.


Hình Riêu Không Kiếp thì tối kị rơi vào mệnh số đàn bà, chủ bị bạc tình, chồng phụ tình đi theo gái (Riêu nằm bên cánh trái chiếu về), nếu gặp thêm Kị, Phục thì chồng sẽ đi mà không bao giờ trở lại (Kị Phục = cấm kị trở lại, không quay về)

---------------------------------------
Nếu khí dương Bắc Đẩu đại diện cho Lửa (Thái Dương) - Chinh phục - Danh Tiếng - Quan Lộc. Thì khí âm Nam Đẩu đại diện cho Nước (Thái Âm). Thái Âm là tinh túy của nước - Bao Dung - Của Cải - Điền Trạch. 

Ngoài ra, Dương chủ quản ngày Âm chủ quản đêm. Âm Dương còn là hai con mắt.

Dương chủ Nam, Âm chủ Nữ. Dương chủ Tuấn Tú, Âm chủ Tuấn Nhã. Dương chủ Cha, Âm chủ mẹ. Dương chủ chồng, Âm chủ vợ. Dương chủ con trai (Thiếu dương), Âm chủ con gái (Thiếu Âm). Âm Dương tối kỵ lục sát tinh phá. Âm bị lục sát phá, cơ cấu gia đình bất ổn. Người mẹ dễ còn vấn đề, người vợ dễ có vấn đề. Kình Đà dễ chia ly, Linh Hỏa lao tâm khổ tứ, Không Kiếp thì trầm luân đa đoan.

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2018

Tạp ghi 1 số cách xem vận khác, và xem vận tháng

+, Tiểu vận thì xem trọng cung vị do vậy tiểu vận khi xem thì trọng ở cung nó đóng. Tiểu vận đến cung nào thì năm đó có liên quan mật thiết đến cung đó. và đặc biệt chú ý đến các sao được an theo Địa chi. ví dụ tiểu vận vào cung Tài thì năm đó có liên quan đến tiền bạc, nếu Cung Tài có Thiên không thủ thì năm đó dễ mất rất nhiều tiền hay làm ăn thất bại, tiểu hạn vào cung Tật mà có Kiếp sát (được an theo Tam hợp năm sinh) thì rất dễ có tai nạn, tật bệnh, hình thương.

+, Lưu thái tuế là chúa tể của một năm nên chỉ xem Cát Hung. khi xem Lưu thái tuế cần đặc biệt chú ý đến Tứ hoá đại vận, Lưu Kình Đà đại vận, Tứ hoá Can năm hạn và lưu kình đà năm hạn, có cậu "Thái tuế nhờ Kình Đà mà dẫn động lưu hành". Lưu thái tuế mang tính động, là vua của 1 năm, nắm quyền sinh sát, gặp Cát thì tất cát, gặp hung thì rất hung, nếu là Cát thì càng Cát, nhưng bình thường cung đó cát lợi, mà lưu thái tuế đến cung đó, có thêm lưu hóa lộc nữa thì là một năm rất hanh thông, ngược lại cung đó xấu mà có thêm hóa kỵ thì cực xấu. Lưu thái tuế ngoài phát động còn có tính chất phóng đại vận hạn tốt xấu.

+, lưu niên đại vận xem cát hung cụ thể của Đại vận, nên cần phối lưu niên đại vận và đại vận.

Ví dụ:

Trên lá số nguyên thủy thì lưu thái tuế vào cung phụ mẫu, nên sẽ có 2 thứ 1 ứng vào Phụ mẫu. 2 nếu cung đó cũng đồng thời là cung lưu phu thê (tính theo di cung, của lưu niên đại vận), thì cũng có thể ứng phu thê nữa, hoặc ứng cả 2. đồng thời cung lưu phu thê cũng xung cung lưu quan, rồi tam hợp với lưu Di, lưu Phúc. nên có thể ứng vào bản thân mình như mất nhiều tiền, công việc kém sút. rồi cung phụ mẫu cũng xung với cung Tật, thì có thể năm đó mình bị bệnh....luận số vận hạn là rất linh hoạt, không thể theo 1 cách được.

+, Sách Tử vi Đẩu số Toàn thư viết "đại vận phát từ Trường sinh đến Đế vượng, rồi lại phát từ Thai đến Trường sinh", cho nên Đại vận suy kém từ Suy đến Tuyệt. vòng trường sinh biểu diễn biến hóa của ngũ hành nạp âm Cung An mệnh, nên nó giống như vòng đời sinh lão bệnh tử của con người. cho nên Đại vận từ Sinh đến Vượng là phát, từ Suy đến Tuyệt là dễ phá bại.

+ Vòng trường sinh dùng để định mạnh yếu của Cách Cục, như Tử Phủ Vũ Tướng mà ở nơi Thai, Mộc dục thì kém hẳn ở Đế Vương hay Quan đới. đó là định vị mạnh yếu của Cách Cục. trong luận đoán đê dễ dàng chỉ cần nhìn vị trí Vòng Trường sinh cùng Cách cục và tứ hóa đại vận + kình đà lộc tồn là được.

+, Đại vận chính là "lưu mệnh" hay dòng thời gian của cuộc đời trôi về đó. Cung Mệnh ảnh hưởng trực tiếp xuyên suốt cuộc đời, cho nên những gì có ở Cung Mệnh sẽ được biểu hiện ở vận hạn. ví dụ một người có số đi tù, thì chỉ đi tù trong khoảng nào gian nào đó, ta nhìn Cung Mệnh có cách đi tù, đến Đại Vận có cách đi tù thì ứng nghiệm sẽ đi tù ở vận này, Đại vận có cách đi tù đến Tiểu vận cũng có cách đi tù thì nhất định sẽ đi tù năm đó. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của việc xem Vận hạn. một người có số Thương tật do tai nạn thì cung mệnh và Cung Tật có cách hình thương, đến Đại vận cũng có cách hình thường thì ứng vào đại vận này, xem xét Tiểu vận có cách hình thương luôn thì nhất định tiểu vận sẽ ứng.
+ Đại vận chính là Lưu cung Mệnh, cho nên xem đại vận cũng giống như xem cung mệnh. Cần phải xem Cách Cục đại vận giống như cung Mệnh vậy. Đại vận thì có Can đại vận, lưu Thái Tuế thì có Can năm, như vậy về cơ bản 12 năm lặp lại như Can đại vận và Can Năm hạn là khác nhau, từ đó tính chất Cát Hung của Thái Tuế cũng thay đổi, Tứ Hóa Phái đã nói rất hay về vận hạn cát hung bằng Tứ hóa. ngoài ra có thể theo Trung Châu Tam Hợp Phái luận đoán.
-------------------------------

Có 1 số quan điểm về cách chuyển vận của lưu niên tiểu vận tính theo ngày tháng năm sinh

Tính năm tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận - đây là chìa khoá quan trọng trong Tửvi Trong sách vở hiện nay, chưa sách nào chỉ ra cách tính tiểu vận đúng, tất cả đều tính theo cách thông thường, ví dụ, người sinh 15/12/Tân dậu (1981) – nam giới, theo cách tính từ truớc đến nay đều cho rằng năm Ât dậu (2005) tiểu vận sẽ nằm ở cung Mùi, nhưng như vậy là sai lầm. Chỉ khi thực sự thành hình thì con người mới hội tụ đủ ngũ hành và chịu sự tác động của những quy luật tự nhiên và xã hội, nên đến ngày 15/12/ Ất dậu (2005) thì mới đủ 25 tuổi và khi đó vận mới nhập vào cung Mùi. Từ trước ngày 15/12/ Ât dậu vẫn thuộc Tiểu vận ở cung Ngọ. Tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận. Ví dụ: người sinh tháng 6 âm, nửa đầu tiểu hạn năm nay ở tỵ, có lộc tồn chiếu thì phải tốt. Qua tháng 6 vận chạy qua ngọ, bị lưu kình chiếu và các sao ở ngọ thì phải khác.

(trùng kiến thức được chia sẻ bởi lethanhnhi: 1,vấn đề lưu niên và tiểu hạn;sang năm mới là dùng can chi năm an lưu niên thái tuế và các sao lưu, nhưng đúng sinh nhật thì mới thay cung tiểu hạn. 2, mọi người hay nhắc đến lưu tứ hóa nhưng ít thấy ai nhắc tới lưu lộc tồn và kình đà của đại hạn, mà Liễu Vô cực kì chú trọng. 3, Dùng tiểu hạn hay lưu niên 1 trong 2 là đủ, dùng lưu niên thì đơn giản chính xác, dùng tiểu hạn thì trọng sao mà bàn cụ thể. 4. XEM VẬN THÁNG, SAO ĐẨU QUÂN CÒN GỌI LÀ NGUYỆT TƯỚNG,TỨC LÀ LÀM CHỦ THÁNG. việc tìm lưu Đẩu Quân không chỉ để tìm tháng giêng xem vận tháng, mà cung lưu Đẩu Quân cũng được khá nhiều tác giả chú trọng khi xem hạn một năm. Lưu Đẩu Quân an tại cung nào, tất sự kiện cung đó động, có sự kiện nổi bật; dùng nguyệt hạn và dùng luôn 9 sao phi tinh (sao lưu) của năm, nếu nó chạm vào tháng nào thì tháng đó dính. Ngoài ra xem các sao trong tháng đó, đây là kinh nghiệm tính vận tháng = trùng kiến thức của anh Long)

NẾU TRỌNG TỨ HÓA DỤNG THẦN THÌ KHÔNG CẦN 108 SAO, NHÌN THẾ ĐỨNG MÀ ĐỌC RA ĐƯỢC. CÒN DÙNG SAO THÌ BẢN CHẤT SAO ĐÃ NÓI NÊN TẤT CẢ RỒI. ĐÂY LÀ 2 CÁCH GIẢI 1 BÀI TOÁN, KHÔNG VIỆC GÌ PHẢI LÀM CẢ 2, VÀ ĐÔI KHI CHÍNH CÁCH DÙNG CỔ ĐIỂN NHƯ CÁC CỤ NGÀY XƯA LẠI HAY.


------------------------------

LUU THAI TUE LA THIEN THOI. LUU TIEU HAN LA DIEN BIEN (ĐỊA LỢI + NHÂN vì thuận nghịch theo nam nữ); KET QUA LA LUU NIEN DAI HAN (Nhân, vì lưu mệnh về đó)


LNĐV, LNTV, LTT là tam tài thiện địa nhân 

---------------------------
Tinh đồ tùy thời mà mạnh yếu khác nhau. Có khi Tử vi là cực phẩm, có lúc Cự Môn mới huy hoàng. Được thời Thái Dương tỏa hào quang, gặp vận Thất Sát thành tượng đài bất diệt. Nhưng chung quy lại, điểm hơn thua được mất của lá số chính là nằm ở Khát vọng. Tôi tạm gọi đó là điểm G.
Khát vọng của Đồ hình chính là ở các vị trí mạnh nhất của tinh bàn.
Khát vọng của Tứ hóa mạnh nhất ở thời Lộc Quyền hội.
Khát vọng của Tràng sinh chính là ở thời Tràng Sinh
Khát vọng của Thái Tuế nằm nơi tam hợp Thái Tuế.
Khát vọng của tình yêu nằm nơi Đào Hồng Hỉ
Khát vọng của siêu thoát nằm nơi không vong.
Khát vọng của những Khát vọng nằm ở chính Sát tinh.
Khát vọng của ám bại chính là: Điểm dối lừa.




Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

Sưu tầm quan điểm phép lưu cung trong đoán hạn của tác giả vuivui

Di cung và lưu tứ hoá xưa như trái đất. Người nào không biết, ấy chỉ là do không có hoặc chưa có duyên với nó mà thôi. Tôi thì từ xưa tới nay, luận tử vi, lúc nào mà chả dùng đến chúng.
Nó không những đơn giản mà còn đầy khiếm khuyết, cần phải được nhiều phương pháp khác bổ trợ một cách trực tiếp. Nói một cách đơn giản nhất, sự phối hợp, chẳng hạn như: phối phép lưu cung với phép lưu thái tuế và các sao lưu.
Trước hết nói về Đại vận 10 năm.
Nếu không lý đến vận trình, rõ ràng cung an mệnh, đúng là cung an mệnh của lá số xác định toàn bộ cuộc đời. Nói cách khác, cung an mệnh là một cung cuộc đời. Phải chăng, cung mà đại vận 10 năm nó nhập sẽ là cái gì?. Câu trả lời sẽ rất tự nhiên, nó chính là Cung Vận đại diện cho cung an Mệnh khi Mệnh "trôi" tới đó - đó là Mệnh Vận. Vây thì, khi mệnh trôi, tức là mệnh vận dịch chuyển, thì chẳng có lý do gì ngăn cản các cung khác không dịch chuyển theo theo cái thế tương quan bắt buộc. Theo lẽ đó, khi có mệnh vận, đương nhiên tương ứng sẽ có 11 cung vận là phụ mẫu vận, phúc vận, điền vận,....
Nếu chỉ dừng tới đại vận 10 năm. Sẽ rất là đơn giản, và cũng chẳng có gì đáng phải bàn. Vấn đề sẽ phức tạp hơn ở chỗ, khi ta xét đến vận lưu niên, rồi ứng dụng nó để đoán vận. Bởi vì khi xét vận lưu niên, chúng ta có ba cung: lưu niên đại vận, lưu niên tiểu vận và cung lưu thái tuế an vị. Có câu hỏi tự nhiên bật ra: Vậy trong ba cung này, cung nào sẽ là Mệnh vận lưu niên đây?
Thực ra câu trả lời này rất dễ, và cũng rất tự nhiên. Đó chính là cung Đại vận lưu niên (= Lưu mệnh/mện vận lưu niên). Cái lý rất đơn giản, bởi vì nó được khởi từ đại vận 10 năm tính đi. Khi cung đại vận lưu niên xuất hiện, bây giờ ta gọi là mệnh vận lưu niên cũng được. Đương nhiên, các cung lưu niên cũng sẽ xuất hiện theo đó. Có người nói rằng, xem như vậy thì dường như mỗi hạn ta đều có một lá số mới chồng lên lá số cũ. Mà muốn xem tới vận lưu niên, tức là ta đã có ba lá số chồng lên nhau. Đó là các lá số: Lá số đầu tiên là lá số tổng quát, lá số thứ hai là lá số lưu đại vận 10 năm, lá số thứ ba là lá số đại vận lưu niên. Cùng với nó có tiểu vận lưu niên và cung có thái tuế nhập. Thêm bao nhiêu sao lưu nữa thì... chúng ta sẽ tá hỏa bởi chỉ mới đoán đến vận lưu niên thôi mà đã quá ư là phức tạp. Làm sao xử lý được tới ba lá số chồng đống lên nhau. Rồi các sao sẽ được an vị thế nào?. Tại sao khi lá số lưu xoay chuyển như thế mà các sao lại "đứng ỳ ra đó", chỉ có một số sao là dịch chuyển, đó là các sao lưu mà thôi?.
Thực ra không phải như vậy. Đó là bởi vì, chúng ta đã có ý niệm sai ngay từ đầu rằng kết quả giải đoán đến vận lưu niên là đã có ba lá số chồng lên nhau. Cũng như bài toán lưu cung. Việc chứng minh hoàn toàn không đơn giản. Nhưng chúng ta có thể tạm đồng ý với nhau bởi vì những lý do sau:
- Lý, mệnh và vận phân ly. Theo ý kiến này, sự thiết lập ba lá số chồng lên nhau là tự nhiên, từ đó đương nhiên, người ta có thể xét chỉ một lá số lưu cuối cùng mà thôi. Nhưng sẽ khiên cưỡng, bởi vì từ đó phải tuyệt đối an sao lưu toàn bộ. Nhưng với những sao an theo năm thì còn có thể. Những sao an theo tháng, ngày giờ thì lấy cái gì để an đây?. Chả nhẽ lại suy từ ngũ hành của cung an mệnh vận?. Đây là điều bất khả do tính đa trị của nó, cũng như về lý rất khiên cưỡng.
- Lý, mệnh vận liên kết. Sẽ đưa tới sự lược bỏ rất lớn đối với các lá số lưu, khiến chúng ta, suy cho cùng kỳ lý – bởi sự không nắm được bản chất cấu trúc của tử vi – thì sẽ lược bỏ vô tội vạ, cuối cùng thì chẳng có một lá số lưu nào cả, hay chỉ là những cung lưu về mặt hình thức mà thôi.
Nhưng thực tế thì, cả hai lý trên đều đúng. Có điều, nghiêng hẳn bất cứ về cái lý nào, cũng đều cực đoan cả. Trong tử vi luận, khác với lý luận hay lô gíc thông thường của khoa học là khi suy luận giải các bài toán khoa học, người ta thường "làm quá" các giả thiết, hay các chứng cứ, cũng như điều kiện của bài toán để tìm ra lời giải của bài toán, thì tử vi luôn không được phép làm như vậy. Tại sao vậy. Giải thích nôm na rằng làm như vậy là vi phạm cái lý âm dương. Nhưng để hiểu được thì không đơn giản tý nào.
Quay trở lại hai lý trên, chúng ta đương nhiên phải chọn giải pháp "trung dung". Nhưng trung dung tới mức độ nào, lại còn phụ thuộc vào trình độ của tử vi gia. Ở trình độ này, người giải sẽ phải vận dụng thêm nhiều phép phối hợp khác. Một trong các phép đó, chính là bên cạnh lưu cung còn có lưu sao ( 9 sao lưu). Nên nhớ, cung tiểu hạn lưu niên và lưu thái tuế là do tự thân nó có, chứ không phải là sự phối hợp thêm do yêu cầu của bài toán lưu cung.
Theo lý đó, tử vi gia phải thiết lập một sự phối hợp sao cho việc giải đoán các biến cố sao cho biến cố được giải đoán phải có những biến cố không được phép xảy ra nhiều lần trong đời. 
Kết luận: tiểu vận lưu niên không phải là mệnh vận lưu niên, mà chỉ có đại vận lưu niên mới là mệnh vận lưu niên mà thôi.
Vậy luận cách từ mệnh vận cho thông tin của mệnh trong vận đó, vậy thì luận cách cục từ LNTH và Thái tuế thì cho ra thông tin về cái gì?.
Đây là câu hỏi tự nhiên, nhưng là câu hỏi mang tính chất rất trừu tượng, do đó mà câu trả lời cũng không thể hy vọng có tính chất rạch ròi, như hai chia hai bằng một được. Ta nên hiểu như thế này.
Phàm những gì được giải đoán từ lá số tất thảy đều thuộc về những biến cố cuộc đời của đương số. Đoán về mệnh vận dài hạn, cũng như mệnh vận ngắn hạn. Có khi đều cho ra những biến cố cụ thể, mà những biến cố đó chỉ xảy ra trong thời gian một năm, thậm chí còn thời gian ít hơn một năm, nghĩa là chỉ vài tháng thôi. Nhưng cho dù chỉ là vài tháng, chúng ta cũng chỉ thấy nó thể hiện trong đại vận 10 năm, vậy mà trong vận một năm hay nhiều năm trong đại vận đó lại chẳng thấy nó xảy ra. Nhưng rồi trong một năm nào đó, và trong năm đó, chỉ có vài tháng là xảy ra. Chúng ta nói rộng ra cho dễ hiểu, chẳng hạn có số nào đó bị tù đày, nhìn trên số tổng quát thấy rõ là số bị tù. Nhưng trong thực tế thì người có số chỉ bị tù vài năm thôi, chứ không bị tù cả đời. Và vài năm đó chỉ xảy ra trong đại vận nhất định nào đó mà thôi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Cho nên mới có câu hỏi: Số bị tù, nhưng khi nào mới bị tù?.
Đấy là nói về vận. Còn với LNTH và Lưu thái tuế thì hiểu thế nào?.
Trên tinh thần hiểu như trên khi nói tính tương đối của Vận, thì cái gọi là thông tin từ LNTH và LTT cũng là thông tin về Mệnh tại vận đó. Một sự tổng hợp thông tin có được từ cả ba cung đó, sẽ cho ta một bức tranh toàn diện hơn về các biến cố đối với mệnh trong bối cảnh toàn diện của các quan hệ mọi mặt của đời sống, hơn là khi mà ta chỉ khu trú, giới hạn trong việc xét thông tin mỗi một cung vận của mệnh. Vì thế, khi thấy một cách cục trong một cung, không nên võ đoán vội ra tiêu chí ngay, mà phải xem xét trên tổng thể, nếu thấy chúng xuất hiện với tần xuất nhiều lần thì tiêu chí, hay biến cố sẽ càng chắc chắn xảy ra. Thay vì chỉ có một lần xuất hiện ở một cung, mệnh vận lưu niên chẳng hạn, thì không nên vội kết luận. Điều này càng có ý nghĩa trong hóa giải. Chẳng hạn như mệnh vận lưu niên thấy tai nạn giao thông xảy ra, nhưng tiểu hạn lưu niên lại thấy được hóa giải và lưu thái tuế lại thấy chẳng hạn như vợ con yên bình thì có thể đoán quyết là tai nạn sẽ không xảy ra, mà chỉ hú hồn thôi, hoặc giả tai nạn có xảy ra nhưng nhẹ và được cứu thoát kỳ lạ,... Cho nên gặp những trường hợp đó rất khó nói ra, bởi khi nói ra rất dễ làm trò cười cho thiên hạ nghe giải đoán, hoặc lại bị cho là hù dọa lấy tiền, lấy danh,... mà không nói ra thì...đáng tiếc những trường hợp như thế lại gặp rất nhiều trong giải số.
------------------------------------------
Tuổi Canh thì tứ hóa sẽ là: Nhật - Vũ - Âm - Đồng, mà không phải là Nhật, Vũ, Đồng, Âm. Tuổi Nhâm là Lương - Vi - Thiên phủ - Vũ khúc. chứ không phải là Lương, Vi, Tả phù, Vũ khúc.
Tứ hóa, đơn giản chỉ là Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ Khí mà thôi. Không cần thiết phải vễ vời nào là cho rằng Lộc là hóa khí của mùa xuân, quyền là hóa khí của mùa hạ, khoa là hóa khí của mùa thu, kỵ là hóa khí của mùa đông. Để rồi từ đó tìm những tính chất của bốn mùa mà ghép cho tứ hóa. Từ đó dẫn tới nhiều tính lý của tứ hóa "lạ lẫm" mà người ta cứ thản nhiên chấp nhận.
phép thái tuế nhập quái cũng thế. Có rất nhiều khuyết tật. Thực chất, muốn dùng chuẩn phép này, phải thông tỏ phép chồng số và quay số. Nếu nhìn theo quan điểm toán học, thì phép thái tuế nhập quái chỉ là phép gần đúng thô nhất có thể có của phép chồng chập lá số mà thôi. Ví như 2,6 mà làm tròn số thành 3 vậy.

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2018

1 số ghi chép đáng lưu ý của Timothy

Ai chế hóa được không, kiếp?

Không kiếp đồng cung thì chế hóa được không kiếp (ở Tỵ hợi), ngoài ra, đại hao, tiểu hao đồng cung với không kiếp cũng có thể chế được, Thiên Diêu, Thiên hư cũng phần nào chế được địa không, địa kiếp, giống như những cái trong sương mù thì không ai biết ở đâu mà cướp


không kiếp và tứ sát sẽ ko còn là sát hay vong nếu vong sát có hoá khoa, tứ đức, thai toạ, quang quý. chính vì thế chúng ta coi trọng giáo dục và cũng chính vì thế chúng ta coi trọng đạo nghĩa, và cũng chính vì thế chúng ta coi trọng thiện tâm, thiện tính.









Tử vi thiền tông (Timothy)

Tứ đại giai không: (không bao gồm thiên không, Địa không ở đây cổ gọi là Thiên không, bây giờ Thiên không là 1 sao nhỏ)
Địa không: Thái cực điểm: Không tính, thiền định, Vô, vọng tưởng, phiền não, tán loạn, tinh thần, vô thường, Thiên
Địa kiếp: Phấn đấu điểm: Động lực, bỏ giữa chừng, hữu cầu tâm, Ngã si, chấp ngã, vật chất, kiếp số, Địa
Tuần không: Không vong tinh, đạm, tự nhiên, lười biếng, tùy duyên, tiêu cực, không hư, hư độ, không hóa, Không
Triệt không: 拦路星, trở ngại, để ý đến, tiêu cực, mơ mộng, việc đã an bài, sự thay chuyển lớn, cắt đoạn, Vong
Tham sân si
Tham sân si là nguyên do mà chúng sinh luân hồi lục đạo, 3 sao này luôn đối chiếu nhau
Tham: Tham lang, động lực luân hồi, thất tình lục dục, Vishnu: Ở trên chủ tiên phật, ở giữa chủ ngũ thuật, ở dưới chủ ái dục
Si: Phá quân, căn bổn của luân hồi, vô minh sở trì, đại phạm thiên, ở trên chủ khai sáng, ở dưới chủ đế vương, ở dưới chủ vô minh
Sân: Thất sát: luân hồi báo ứng, trì vọng ngã, thần Shi va, ở trên chủ đoạn diệt, ở giữa chủ quyền sát, ở dưới chủ 恚执
Trúc la tam hạn chủ khai sáng hoặc 大坎
Vị trí nơi Tham lang đứng là thứ mình muốn có rất nhiều, rất động lực, vị trí của Phá quân chủ nơi mình để ý, quan tâm tới nhất, si tâm, thất sát ở nơi nào thì đó là nơi có biến động lên xuống lớn nhất, đa biến
Mệnh cung: Chủ đại cục, sở trì thành ngã, nhân sinh đại vận, vọng ngã thể, như mộng hoán, ảnh, như lôi như điện, nên dùng cách xem như thị, tiên thiên vận số, mệnh vận chủ chốt, bước đầu của khởi vận, căn bản của ngã, là đại cục của cả đời cũng như cảm thụ ở bên trong, có thể nhìn thấy tính cách của cá nhân, hành vi, tướng mạo, khí chất. Lấy mệnh cung làm chủ, phối hợp tổ hợp những cung vị khác, có thể hiển thị cách cục của cá nhân, hiểu được mệnh vận tới cuối đời, là trọng tâm của cả lá số
Thân cung: Báo của kiếp trước, ngã của kiếp này, thân bất do kỉ, sự tất nhiên của cuộc đời, quá khứ, hiện tại vị lai không thể đắc, hãy ở hiện tại, thân cung nghĩa là nghiệp lức quá khứ để thành báo thân hôm nay, báo đắc sở thành, thân không do kỉ nghĩa là con đường của cuộc đời, hoặc là việc kiếp này cần đính chính, mệnh cung luôn luôn là không tưởng của cuộc đời, như ảnh như mộng, không chắc chắn sẽ xuất hiện, nhưng cung thân thì khác, thân cung có cách cục và tình hình thế nào sẽ trực tiếp ảnh hưởng nhân sinh phú quý hoặc bước đường đi của mệnh vận, có ý nghĩa tu chính 修正 mệnh cung, do nỗ lực và phương hướng nỗ lực hậu thiên cải, luôn luôn có thể cải tạo mệnh vận, có là chủ thể của cả đời này
Thân cung: sở báo của thân, thân không do kỉ, cung thân có sao nào thì chắc chắn sẽ liên quan tới tình trạng, diễn biến của cả cuộc đời
Thân cung đồng với cung mệnh, chủ thân không do mình qđ, ngộ kiết càng tốt, ngộ hung càng xấu, luôn luôn sẽ liên quan tới sự phát huy của bản thân và nghiệp chướng, quan tâm tới được mất của cuộc đời
Thân Quan đồng cung: Danh lợi, cả đời đam mê thành tựu của bản thân, có tâm sự nghiệp và hùng tâm mạnh
Thân tài đồng cung: Tài phú, cả đời quan tâm tới tiền bạc, tâm kiếm tiền lớn, nỗ lực để khiến cuộc sống tốt hơn, hậu thiên khai sáng mạnh (tiền bạc là căn bản của xã hội)
Thân Phu đồng cung: sinh hoạt, có tâm gia đình, đối với con cái tốt, trọng cảm tình, ái tình quan trọng, dễ bị người phối ngẫu ảnh hưởng, đối với công việc có tâm trì
Thân di đồng cung: Biến thiên, dễ thọ hoàn cảnh biến thiên ảnh hưởng mình, dễ có biến thiên nơi công việc hoặc gia đình, luôn bận rộn hoặc khai sáng ngoại địa, quan trọng tới người khác nghĩ tới mình thế nào
Thân phúc đồng cung: thích suy nghĩ, hưởng thụ, trí huệ, không tưởng, tạo chỉ tinh thần cao, thích chơi bời, có tình thú, liên quan nhiều tới nhân quả tổ đức, thích hợp tu hành, tư tưởng gia
Phúc đức: Nhân duyên phúc đức, luân hồi căn bổn, bên ngoài thì leo trèo, bên trong là chân tâm, Ngu phu bất tư lượng, phàm phu tự phân biệt, liễu nhiên bất khả đắc
Phúc đức chủ sơ thích cá nhân, hưởng thụ, tinh thần, thật ra thì phúc đức không chỉ là phúc báo của kiếp này, mà là cái trục của quá khứ, vị lai, là căn bản của tam thế luân hồi, là căn bản của tam thế luân hồi, bên ngoài thì chiếm giữ tam thế phúc đức, bên trong tàng tam thế công đức, bên ngoài là vọng tâm, bên trong là A lại da thức, có thể giữ tàng quá khứ, hiện tại, vị lai 3 đời chủng tử, tu hành và phúc họa chủ thể, bất cứ cung nào, nếu bạn có thể xem xuyên suốt thì phúc đức luôn là phần chủ đạo phân nửa của bất cứ cung nào, tâm này mật bất khả đắc, thiên cổ thánh nhân ấn tâm sở truyền, nếu bí mật này mà mọi người còn chưa biết, thì nên xem kinh viên giác, dĩ lăng già kinh làm tâm ấn để kiểm chứng sở ngộ của cá nhân, sợ người ta giải số mê hồ, nên không nói tiếp ở đây
Tử tức, tật ách: Phúc đức sở hao, một cái tôi khác, mệnh tật nhất thể, nhất lục cung tông
Cung tử tức bổn chính là cung sex, chủ tử tức hạ thủ, cung tử tức còn tành chứa một mặt khác của bạn mà không ai biết, mà cái tập khí này luôn luôn nó sẽ truyền cho đời sau, cung tử tức không tốt, không chỉ nói lên là vãng niên khổ sở, không nơi nương tựa, mà còn nói lên là tổ đức của bạn tới đời này là hao tận rồi, cũng sẽ hao tổn phúc khí của bạn ở kiếp này, thiên hướng về tiêu hao, mà không phải là tích lũy, vì sao? Vì cung tử tức là cung tật của cung phúc đức, chính là sở hóa của tự thân
Cung tật ách, chủ tật bệnh tai ách, chính là quá khứ nghiệp lực báo tại thân thể, nhất lục cộng tông, mệnh tật cộng thể, với mệnh là đại tiểu vũ trụ, cũng bao hàm tiềm ý thức của tự thân và sở thích nội tại tiềm chất
Nghiệp lực:
Thiên hình: Dương tính nghiệp lực, luôn ở cung âm, ở trên chủ tiên phật thanh tịnh lục thông chánh tín, kiếp này cần phải xóa nợ, chính là tu hành cảm chiêu mà lại, nghiệp lực của Thiên hình, chính là kiệp này cần phải trả sạch, cũng giống như trời muốn tôi luyện bạn, tiên phật bị phạt xuống trần, hoặc là người có cuộc sống phiêu đãng chính nghĩa, nếu là người tu hành, tu càng cánh, quả báo đến càng nhanh, mà không phải là trốn tránh, như nhị tổ bị sát, thiên hình, tâm chính nghĩa mạnh, hắc bạch không ăn, mà nhường 3 phần. Nghiêm khắc thanh cao, là người dễ tập chính thuật (thuật pháp chính đạo), trọng nguyên tắc, thích ra hình phạt, thích luận đạo, hoặc là người thiên hướng, 干脆不信, lưu niên Thiên hình, dễ tu hành lên cấp cao, dễ có bồ đề chỉ điểm mà có sự ngộ, tai nạn
Thiên hình ở các cung:
Mệnh, ấu niên phụ mẫu là người khó khăn, hoặc bạn hay bị chỉ trích, đánh đập, cả đời nhiều tôi luyện, đa cảm xúc, là người thanh cao, 恃才傲物, cố chấp
Huynh đệ: đối với người khác thì khá khó khăn, dễ tranh chấp với huynh đệ, quan tư, bênh ngoài lạnh bên trong nóng, trong số bạn bè có người thanh kì cô độc, hoặc chết sớm
Phu thê: chủ đại hung, đối tượng dễ làm tổn thương mình, tranh chấp, từ đó nhìn thấy rõ hồng trần, Thiên hình ở miếu là thiên hỉ thần, chủ kiết, phối ngẫu thông minh, thanh cao
Tử tức cung: Cô khắc với con cái, hoặc tử tức thích ra riêng, thanh cao, đề phòng cơ quan sinh dục bị tổn thương, hoặc làm hại đối tượng người yêu, phòng ngừa tai nạn lúc có thai, hoặc tử tức bị thương
Tài bạc: Thích hưởng thụ, có cảm giác tiền không đủ xài, thích hợp tu hành để chuyển hóa nghiệp lực của bản thân, hoặc nói lên tiền mình kiếm có liên quan tới tư pháp, tôn giáo hoặc y dược
Tật ách: dễ 用人自扰, cô tịch, tính cách quái dị, có khuynh hướng tự bạc đãi bản thân, thích hợp với tu hành tôi luyện, tự bản thân dễ bị thương, như khai đao