Thứ Ba, 27 tháng 2, 2018

Ý nghĩa đặc thù của 12 sao trường sinh cục ngũ hành

12 sao trường sinh cục Ngũ hành tức là trường sinh, mộc đục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng.
Phàm lập mệnh ở lâm quan, đế vượng, chủ phú quý.
Lập mệnh ở suy, bệnh, tử, tuyệt là mệnh bần cùng.
Lập mệnh ở mộ, tuyệt, thai, dưỡng là mệnh bình thường.
Lại xem cung Thân, cung Thân tọa chỗ trường sinh, đế vượng thì sống thọ. Tại chỗ đế vượng chủ cát lợi. Cung Thân tại chỗ tử, tuyệt là mệnh bần cùng.
Thường mọi người khi nghiên cứu Tử vi đẩu số rất ít chú ý đến 12 sao này. Kỳ thực, 12 sao này có quan hệ rất mật thiết và vi diệu với phú quý, bần khổ của cuộc đời chúng ta.
Căn cứ theo sách xưa: Ca quyết vận hành 12 sao trường sinh như sau:
Tuổi già, sợ trường sinh và đế vượng
Trẻ sợ suy
Thanh niên sợ mộ, tuyệt, thai.
Ý nói: Lão vận tức đại hạn tuổi già không hợp gặp sao trường sinh, đế vượng, vận lúc nhỏ không hợp gặp sao suy, vận lúc thanh niên không hợp gặp sao mộ, tuyệt, thai.
Dưới đây giải thích độc tính 12 sao trường sinh như sau:
"Trường sinh" là biểu thị sinh khí thai nghén, giống như cành cây đang nảy mầm. Vận tuổi già mà gặp sao trường sinh đến đó thì tương phản, có hiện tượng khắc con cháu. Trường hợp này nếu người già thân thể khỏe mạnh cũng không phải là hiện tượng tốt, vì dễ gặp tình trạng "lá xanh rụng trước lá vàng", đó là vì vận tuổi già gặp trường sinh hoặc đế vượng.
Trường sinh nếu như đồng cung với Thiên cơ thì tốt và lợi để giúp nhau cùng sinh, cùng trưởng thành.
Trường sinh kỵ đồng cung với Không vong, phàm việc gì cũng chỉ có hoa mà không có quả. Nếu như đồng cung với Hàm trì, tiểu hạn gặp điều này dễ phạm đào hoa.
"Mộc dục" chủ về tình cảm, ưa tọa cung Phu thê, thể hiện vợ chồng ân ái ngọt ngào, không hợp tọa cung Mệnh, cung Thân, cung Tài bạch hoặc cung Điền trạch, đặc biệt là không hợp tọa chỗ Tứ bại, sẽ thường vì tình mà khổ não (Tứ bại tức Tý, Ngọ, Mão, Dậu, lại là chỗ đào hoa, tiểu hạn gặp nó khó tránh phạm đào hoa).
"Quan đới" bao hàm hỷ khánh, cát tường, tọa ở cung Mệnh chủ phú quý, vì sự nghiệp có thành tựu mà đắc ý.
"Lâm quan" cũng bao hàm cát khánh, trong 12 cung đều tốt đẹp. Hành hạn mà gặp điều này ắt việc được như ý.
"Đế vượng" biểu thị lúc đầu bổng bột, rồi trưởng thành, các cung đều tốt, chỉ có đại hạn lão niên là không hợp tọa chỗ này.
"Suy" biểu thị bắt đầu xuống dốc, gặp việc đau lòng tinh thần cũng không vực dậy được, trụy lạc, suy sụp, không cầu tiến. Hành hạn gặp điều này việc gần thành cũng bại.
"Bệnh" biểu thị suy nhược, không có tinh thần. Hành hạn gặp điều này chủ về quyết tâm có thừa mà sức không đủ.
"Tử" biểu thị trầm lặng, tổn hao không còn sinh khí. Hành hạn gặp điều này việc gì cũng tiêu cực, tự quyết tâm cũng tự vứt bỏ.
"Mộ" ý là ấp ủ trong lòng, lúc bắt đầu thì tốt, hợp nhập cung Tài bạch, biểu thị có vận tiền tài, hoặc cung Quan lộc biểu thị sự nghiệp bản thân ấp ủ đã phát triển. Nhưng nếu nhập cung Tật ách biểu thị bản thân mắc bệnh lạ, cũng không hợp nhập cung Thân hoặc cung Mệnh.
"Tuyệt" biểu thị cô độc, diệt vong, cho nên hợp nhập cung Tật ách, biểu thị bệnh này sẽ thuyên giảm. Nhưng không hợp nhập cung Mệnh, cung Thân và cung Tử nữ, phàm việc gì cũng không được giấu dốt, nên biết nỗ lực vươn lên.
"Thai" biểu thị việc gì cũng có hy vọng, chỉ không hợp nhập cung Phu thê, cung Tử nữ và cung Tật ách, đại hạn lúc trẻ cũng không hợp.
"Dưỡng" biểu thị việc đó đã hình thành, bắt đầu bồi dưỡng, nên nỗ lực tiến tối vì có hy vọng, các cung đều tốt, chi kỵ nhập cung Tật ách và đại hạn lúc trẻ.
(Lập và giải tử vi đẩu số - Phương pháp đoán mệnh - Phan Tử Ngư)

Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

Thiên Đồng - Can Canh Hóa Kị

Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là miêu tả về tâm trạng, cho nên lúc hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là "tâm trạng không ổn định", nếu Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì vậy không phải là tai vạ.
Thiên Đồng chủ về tay trắng làm nên, ý vị mở rộng là trung niên ắt sẽ có một khoảng thời gian gian khổ, sau khi Thiên Đồng hóa Kị sẽ làm mạnh thêm ý vị này. Do đó, thường thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia cảnh không tệ, đột nhiên mọi thứ thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải qua gian khổ của cuộc đời.
Thiên Đồng còn là sao "tình cảm", sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra tình huống rắc rối khó xử về "tình cảm", có tình yêu không bình thường nên đau khổ vì tình, trong tình cảnh này mệnh tạo thường thường khó tự động đứng lên, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc hãm, đây là tâm trạng không yên, tinh thần xuống thấp (suy sụp), do đó không có cách nào chuyên tâm phát triển sự nghiệp. Thường thường còn biểu trưng cho "Lý tưởng vượt quá hiện thực", vì vậy mà đời người theo đuổi "lý tưởng" rất lao khổ. Nếu có các sao Sát – Hình trùng trùng, thì tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa nghi mà chịu nhiều lo lắng.
Thiên Đồng hóa thành sao Kị thường thường biểu trưng cho hội chứng "suy nhược thần kinh", cũng tức là nói "âm hư", "khí hư" mà cổ nhân đã nói.
"Thiên đồng Thái âm" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc tồn), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Thiên lương", và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy rối.
"Thiên đồng Thái âm" ở cung Ngọ đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kị thường biểu trưng cho lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến hội chứng "suy nhược thần kinh", lại còn tự chuốc lấy rắc rối về tình cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần thiết.
Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.
Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi, có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết, nhưng tài lộc vẫn không lo bị thiếu.
"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà la, ở cung Sửu thì bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với Thiên Cơ độc tọa, và "Thái dương Thiên lương" mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kị rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó xử trong tình cảm, do đó dẫn đến "điều tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần kinh, như thoái hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị "trúng phong", thậm chí có thể "bán thân bất toại".
Do có tinh hệ "Thái dương Thiên lương" hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy cũng thích hợp nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.
"Thiên đồng Thiên lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp với thái âm độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.
Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng kiếm tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên một nghề, không chuyên nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng đến sự ổn định của cuộc sống.
Đặc biệt là lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình dương, ở cung Mão thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam phương hội hợp với Cự môn độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.
Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có khuynh hướng "suy nhược thần kinh". Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh hệ này.
Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc "đố kị", "điều tiếng thị phi", thường thường là do mệnh tạo cố tránh "điều tiếng thị phi" mà ra, đúng với câu nói "càng sợ thì càng gặp nhiều". Nhưng Thiên Đồng ở cung Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn, tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa và "Thái âm Thiên cơ".
Hai cung Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kị sẽ biến thành lực kích phát, do đó thường là cách "phản bối", có thể không thành cách "phản bối" nhưng cũng chủ về nhờ trải qua nhiều biến động thay đổi mà thành người hữu dụng.
Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến động thay đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp cơ hội phát đạt đột ngột, có ý vị "vô tình cắm liễu, liễu xanh um".
Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Cự môn", và mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc. Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Kình dương hoặc Đà la.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kị chỉ làm tăng "tâm trạng không ổn định".
Nhưng có lúc "tâm trạng không ổn định" này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người phối ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng gió trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình cảm.
(Dẫn theo blog Trần Nhật Thành)