Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018

Đính lý bất toàn - Tính bất toàn của vũ trụ không chứng minh cho việc Chúa tồn tại. Nhưng…

“Định lý Bất toàn của Gödel: Khám phá Toán học số 1 trong thế kỷ 20” là một bài giảng của Perry Marshall. Dưới đây là bản lược dịch của Phạm Việt Hưng.
Định lý Bất toàn của Gödel
Perry Marshall – doanh nhân, nhà chiến lược gia marketing và tác giả sách (ảnh: Wiki)
Lời dẫn của người dịch:
Gottfried Leibniz có lần nói: “Không có toán học chúng ta không thể đi sâu vào triết học. Không có triết học chúng ta không thể đi sâu vào toán học. Không có cả hai chúng ta không thể đi sâu vào bất cứ thứ gì”. Dẫn lời Leibniz, Perry Marshall đưa chúng ta vào thế giới của Toán học và Triết học, ở đó chúng ta có thể thấy rõ hơn chân lý, biết đâu là sự thật. Đó là mục đích bài giảng của ông…
ĐỊNH LÝ BẤT TOÀN CỦA GÖDEL: KHÁM PHÁ TOÁN HỌC SỐ I CỦA THẾ KỶ XX
Bài giảng của Perry Marshall
Gottfried Leibniz:
“Không có toán học chúng ta không thể đi sâu vào triết học. Không có triết học chúng ta không thể đi sâu vào toán học. Không có cả hai chúng ta không thể đi sâu vào bất cứ thứ gì”.
Galileo Galilei:
“Toán học là ngôn ngữ Chúa viết trong vũ trụ”
Năm 1931, Kurt Gödel giáng cho các nhà toán học trong thời của ông một đòn nặng nề. Năm 1931, nhà toán học trẻ Kurt Gödel có một khám phá mang tính bước ngoặt, gây ra những chấn động lớn như những gì Albert Einstein đã làm.
Khám phá của Gödel không chỉ áp dụng cho toán học, mà thực ra áp dụng cho tất cả các ngành của khoa học, logic và hiểu biết của con người nói chung. Nó thực sự làm rung chuyển trái đất.
Định lý Bất toàn của Gödel
Nhà toán học Kurt Gödel, ảnh chụp năm 1925 (ảnh: wiki)
Nhưng trớ trêu thay, không mấy ai biết về nó. Vậy hãy cho phép tôi nói với các bạn câu chuyện về định lý này.
Các nhà toán học vốn thích chứng minh mọi thứ. Vì thế họ nóng lòng và băn khoăn trong suốt nhiều thế kỷ vì có một số định đề toán học họ nghĩ là đúng nhưng không thể CHỨNG MINH.
Chẳng hạn nếu bạn đã từng học Hình học ở trường trung học, hẳn là bạn đã làm những bài tập chứng minh các tính chất của tam giác dựa trên một số định lý cơ bản.
Môn hình học đó được xây dựng trên 5 tiên đề của Euclid. Mọi người đều thấy những tiên đề đó là đúng, nhưng sau 2500 năm vẫn không có ai tìm ra cách chứng minh chúng.
Vâng, dường như hoàn toàn hợp lý khi cho rằng một đường thẳng có thể kéo dài vô tận về hai phía, nhưng không ai có thể CHỨNG TỎ điều đó. Chúng ta chỉ có thể bày tỏ rằng đó là một tập hợp 5 tiên đề hợp lý, và thực tế là cần thiết.
Những thiên tài toán học cao chót vót đã thất vọng trong hơn 2000 năm bởi vì họ không thể chứng minh tất cả các định lý của họ. Có rất nhiều điều “rõ ràng” là đúng nhưng không ai có thể tìm ra cách chứng minh.
Tuy nhiên, vào những năm đầu của thập niên 1900, một niềm lạc quan to lớn bắt đầu phát triển trong giới toán học. Các nhà toán học xuất sắc nhất thế giới lúc đó (như Bertrand Russell, David Hilbert và Ludwig Wittgenstein) tin rằng họ đang nhanh chóng tiến gần tới một phương pháp tổng hợp cuối cùng.
(Họ tin rằng) một sự thống nhất “Lý thuyết về mọi thứ” rốt cuộc sẽ thít chặt các đầu mối lỏng lẻo. Toán học sẽ kiện toàn, đạn bắn không thủng, không có kẽ hở cho không khí lọt vào, và toán học sẽ đắc thắng.
(Nhưng) năm 1931, nhà toán học trẻ người Áo, Kurt Gödel, đã công bố một công trình CHỨNG MINH một lần và mãi mãi rằng một Lý thuyết Duy nhất về Mọi thứ thực ra là không thể có (impossible, bất khả).
Khám phá của Gödel được gọi là “Định lý Bất toàn”.
Nếu bạn dành cho tôi vài phút, thì tôi sẽ giải thích với bạn định lý đó nói gì, Gödel đã khám phá ra định lý đó như thế nào, và định lý đó có ý nghĩa gì – tôi nói bằng một ngôn ngữ mộc mạc, đơn giản đến nỗi ai cũng hiểu.

Định lý Bất toàn của Gödel nói rằng:

“Bất cứ điều gì mà bạn có thể vẽ một vòng tròn bao quanh nó sẽ không thể tự giải thích về bản thân nó mà không tham chiếu đến một cái gì đó ở bên ngoài vòng tròn – một cái gì đó mà bạn phải thừa nhận là đúng nhưng không thể chứng minh.”
Xin nhắc lại điều nói trên bằng ngôn ngữ chính thức của khoa học:
Định lý Bất toàn của Gödel nói rằng: “Bất kỳ lý thuyết nào được tạo ra một cách hiệu quả đủ khả năng biểu diễn số học sơ cấp đều không thể vừa nhất quán vừa đầy đủ. Đặc biệt, đối với bất kỳ lý thuyết hình thức nào nhất quán, được tạo ra một cách hiệu quả cho phép chứng minh một số chân lý số học căn bản, sẽ có một mệnh đề số học đúng nhưng không thể chứng minh trong lý thuyết ấy.”
Luận đề Church-Turing nói rằng một hệ vật lý có thể biểu diễn số học sơ cấp y như con người, và rằng số học của Máy Turing (computer) không thể chứng minh được bên trong hệ thống đó và do đó computer cũng bất toàn.
Bất kỳ hệ vật lý nào có thể đo lường đều có khả năng biểu diễn số học sơ cấp (Nói cách khác, trẻ em có thể làm toán bằng cách đếm ngón tay, nước chảy vào thùng sẽ tạo nên một lượng nước đếm được, và các hệ vật lý luôn luôn đua ra câu trả lời rõ ràng).
Do đó vũ trụ (thế giới vật lý) có khả năng biểu diễn được bằng số học sơ cấp và giống như bản thân toán học và computer, vũ trụ ấy là bất toàn.
Lý luận trên có thể tóm tắt bằng tam đoạn luận sau đây:
1. Mọi hệ thống đủ phức tạp có thể tính toán được đều bất toàn.
2. Vũ trụ là một hệ đủ phức tạp có thể tính toán được.
3. Do đó vũ trụ là bất toàn.
Bạn có thể vẽ một vòng tròn xung quanh tất cả các khái niệm trong cuốn sách hình học trung học của bạn. Nhưng tất cả chúng được xây dựng trên 5 tiên đề của Euclid, những tiên đề này rõ ràng là đúng nhưng không thể chứng minh. 5 tiên đề đó nằm ngoài cuốn sách, tức là bên ngoài vòng tròn bạn vừa vẽ.
Bạn cũng có thể vẽ một vòng tròn xung quanh một chiếc xe đạp nhưng sự tồn tại của chiếc xe đạp đó dựa vào một nhà máy ở bên ngoài vòng tròn đó. Chiếc xe đạp không thể tự giải thích sự tồn tại của bản thân nó.
Gödel chứng minh rằng LUÔN LUÔN có nhiều cái đúng hơn là cái bạn có thể chứng minh. Trong bất kỳ hệ thống logic hay hệ thống số nào mà các nhà toán học đã từng xây dựng được đều luôn luôn tồn tại ít nhất một vài giả định không thể chứng minh.
Định lý bất toàn của Gödel không chỉ áp dụng cho toán học, mà cho mọi đối tượng tuân thủ các định luật của logic. Bất toàn đúng trong toán học; nó cũng đúng trong khoa học hay ngôn ngữ hoặc triết học.
Và: Nếu vũ trụ mang tính chất toán học và logic thì tính bất toàn cũng áp dụng cho vũ trụ.
Định lý Bất toàn của Gödel
Gödel và Einstein vốn là một cặp bạn bè thân thiết khi hai ông cùng là giáo sư tại Đại học Princeton. (ảnh qua world.edu)
Gödel sáng tạo ra chứng minh của mình bằng cách khởi đầu với “Nghịch lý Kẻ nói dối” (The Liar’s Paradox) – đó là mệnh đề: “Tôi đang nói dối.” (I am lying)
Mệnh đề “Tôi đang nói dối” là một mệnh đề tự mâu thuẫn, bởi nếu mệnh đề ấy phản ánh đúng sự thật, rằng tôi là một kẻ nói dối, thì suy ra mệnh đề vừa nói không đáng tin cậy, tức là mệnh đề ấy mâu thuẫn với chính nó; nếu mệnh đề ấy sai, lập luận tương tự cũng đi đến mâu thuẫn .
Tương tự như vậy, bằng một trong những biến đổi khéo léo nhất trong lịch sử toán học, Gödel đã chuyển Nghịch lý Kẻ Nói Dối thành một công thức toán học. Ông đã chứng minh rằng bất kỳ một mệnh đề nào cũng đòi hỏi một quan sát viên bên ngoài.
Không có mệnh đề nào (một sự trình bày nào) có thể một mình nó tự chứng minh nó đúng.
Định lý bất toàn của Gödel là một đòn nặng nề giáng vào “chủ nghĩa thực chứng” trong thời đại đó. Gödel chứng minh định lý của ông một cách rõ ràng trắng đen đến nỗi không ai có thể tranh cãi với logic của ông.
Tuy nhiên một số đồng nghiệp toán học của ông đến lúc ra đi về bên kia thế giới vẫn phủ nhận ông, tin rằng bằng cách này hay cách khác, trước sau Gödel chắc chắn phải sai.
Nhưng ông không sai. Định lý Bất toàn của ông thực sự đúng. Có nhiều cái đúng hơn là cái bạn có thể chứng minh.
Định lý Bất toàn của Gödel
Năm 1951 Gödel trở thành một trong hai người đầu tiên đoạt Giải thưởng Einstein (Albert Einstein Award), một giải thưởng dành cho những công trình về vật lý lý thuyết, được thiết lập ngay từ khi Einstein đang còn sống. (ảnh: Internet)
Một “lý thuyết về mọi thứ” – dù trong toán học hay vật lý, triết học – sẽ không bao giờ tìm thấy. Đơn giản vì nó không thể tồn tại (impossible, bất khả).
OK, vậy điều này thực ra có ý nghĩa gì? Tại sao vấn đề này lại là vô cùng quan trọng, thay vì chỉ là một chuyện phiếm để mua vui?

Đây là ý nghĩa của định lý bất toàn:

● Đức tin và Lý lẽ không phải là kẻ thù của nhau. Thực ra điều ngược lại mới đúng! Cái này nhất thiết cần cái kia để tồn tại. Mọi lý lẽ rốt cuộc đều quay trở lại niềm tin vào một cái gì đó mà bạn không thể chứng minh.
● Mọi hệ thống đóng kín đều phụ thuộc vào một cái gì đó ở bên ngoài hệ thống.
● Bạn luôn luôn có thể vẽ một vòng tròn lớn hơn nhưng sẽ luôn luôn tồn tại một cái gì đó bên ngoài vòng tròn.
● Lý lẽ hướng từ một vòng tròn lớn hơn vào một vòng tròn nhỏ hơn là “lý lẽ suy diễn”(deductive reasoning). Thí dụ:
1. Mọi người đều sẽ chết.
2. Socrates là một con người.
3. Vậy Socrates sẽ chết.
● Lý lẽ hướng từ một vòng tròn nhỏ hơn ra một vòng tròn lớn hơn là “lý lẽ quy nạp”. Thí dụ:
1. Khi tôi thả đồ vật ra, chúng sẽ rơi.
2. Do đó tồn tại một định luật về hấp dẫn chi phối mọi vật thể rơi.
Chú ý rằng khi bạn chuyển từ vòng tròn nhỏ hơn ra vòng tròn lớn hơn, bạn phải thừa nhận rằng bạn không thể chứng minh 100%.
Chẳng hạn bạn không thể CHỨNG MINH lực hấp dẫn luôn luôn tồn tại vào mọi lúc. Bạn chỉ có thể nhận thấy lực hấp dẫn tồn tại vào mỗi lúc bạn quan sát. Bạn không thể CHỨNG MINH vũ trụ là hợp lý (rational, tuân thủ những quy luật nhất định). Bạn chỉ có thể nhận thấy các công thức toán học, như E = mc2 chẳng hạn, dường như mô tả một cách hoàn hảo cái mà vũ trụ tiến hành.
Gần như mọi định luật khoa học đều dựa trên lý lẽ quy nạp. Những định luật này đều dựa trên một giả định cho rằng vũ trụ là logic và dựa trên những định luật cố định có thể khám phá ra.
Bạn không thể CHỨNG MINH giả định đó (bạn không thể chứng minh mặt trời sẽ mọc vào buổi sớm mai). Thực ra bạn phải chấp nhận điều đó bằng niềm tin. Khoa học được xây dựng trên những giả định triết học mà bạn không thể chứng minh bằng khoa học. Thật vậy, phương pháp khoa học không thể chứng minh, nó chỉ có thể gợi ý, phỏng đoán (Khoa học xuất phát từ tư tưởng nguyên thủy rằng Chúa tạo ra một vũ trụ có trật tự tuân thủ các định luật cố định có thể khám phá được).
Bây giờ hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta vẽ vòng tròn lớn nhất có thể có – vòng tròn bao quanh toàn thể vũ trụ (nếu có đa vũ trụ thì vẽ môt vòng tròn chứa tất cả những vũ trụ đó):
● Phải có một cái gì đó bên ngoài vòng tròn đó. Một cái gì đó mà chúng ta phải thừa nhận là không thể chứng minh được.
● Vũ trụ mà chúng ta biết là hữu hạn – hữu hạn vật chất, hữu hạn năng lượng, không gian hữu hạn và thời gian là 13,7 tỷ năm tuổi.
● Vũ trụ ấy mang tính chất toán học. Bất kỳ hệ vật lý nào có thể đo đạc đều có thể biểu diễn bởi số học (Bạn không cần biết toán học để làm phép cộng – bạn có thể sử dụng bàn tính gẩy tay để tìm câu trả lời vào mọi lúc).
● Vũ trụ (tất cả mọi vật chất, năng lượng, không gian, thời gian) không thể tự giải thích cho nó.
● Bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất đều là vô hạn. Theo định nghĩa, không thể vẽ một vòng tròn bao quanh nó.
● Nếu chúng ta vẽ một vòng tròn bao quanh mọi vật chất, năng lượng, không gian và thời gian và áp dụng định lý Gödel, chúng ta sẽ thấy cái gì ở ngoài vòng tròn đó sẽ không phải là vật chất, không phải năng lượng, không phải không gian và cũng không phải thời gian. Đó là thế giới phi vật chất.
● Bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất đều không phải là một hệ thống – nghĩa là không phải một tập hợp bao gồm các thành phần. Nói cách khác, nếu chúng ta có thể vẽ một vòng tròn bao quanh vật chất, năng lượng, không-thời-gian thì cái nằm ngoài vòng tròn ấy là không thể phân chia được.
● Bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất đều là nguyên nhân không có nguyên nhân, bởi vì bạn luôn luôn có thể vẽ một vòng tròn bao quanh một kết quả.

Chúng ta có thể áp dụng lý lẽ quy nạp tương tự cho nguồn gốc của thông tin:

● Trong lịch sử vũ trụ, chúng ta cũng đã biết sự xuất hiện của thông tin, vào khoảng 3.5 tỷ năm trước. Nó xuất phát từ mã của Hệ Di truyền (Genetic code), một thứ phi vật chất mang tính biểu tượng .
● Thông tin phải xuất phát từ bên ngoài, bởi vì thông tin được biết không phải là một đặc trưng vốn thuộc về vật chất, năng lượng và không gian hoặc thời gian.
● Mọi mã mà chúng ta biết nguồn gốc đều được thiết kế bởi những thực thể có ý thức.
● Do đó bất kể cái gì ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất cũng phải là một thực thể có ý thức.
Nói cách khác, khi chúng ta bổ sung thông tin vào trong phương trình, chúng ta có thể kết luận rằng cái ở bên ngoài vòng tròn lớn nhất không chỉ vô hạn và phi vật chất, mà còn có ý thức.
Chẳng phải thú vị hay sao khi những vấn đề này nghe có vẻ đáng ngờ vực như những gì mà các nhà thần học đã mô tả Chúa trong hàng ngàn năm nay?
Vì thế sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy 80-90% dân chúng trên thế giới tin vào Thượng đế theo một cách nào đó. Thật vậy, đó là trực giác đối với phần lớn các dân tộc. Nhưng định lý Gödel chỉ ra rằng đó cũng là logic tối cao. Thực ra đó là lập trường duy nhất mà người ta có thể nắm lấy và đứng trên đó trong vương quốc của lý lẽ và logic.
Người nào tự phụ tuyên bố “Bạn là người của đức tin, còn tôi là người của khoa học” thì người ấy không hiểu gốc rễ của khoa học hoặc bản chất của tri thức!
Một khía cạnh thú vị khác…
Nếu bạn có dịp thăm một trang mạng vô thần lớn nhất thế giới có tên là Infidels, bạn sẽ thấy trên trang chủ lời tuyên bố sau đây: “Chủ nghĩa duy tự nhiên (naturalism) là giả thuyết cho rằng thế giới tự nhiên là một hệ đóng, ngụ ý rằng không có cái gì không phải là thành phần của thế giới tự nhiên mà lại ảnh hưởng lên nó”
Nếu bạn biết định lý Gödel, bạn sẽ thấy rằng mọi hệ logic phải phụ thuộc vào một cái gì đó ở bên ngoài hệ thống. Vậy theo định lý bất toàn của Gödel, tuyên bố của trang mạng Infidels không thể chính xác. Nếu vũ trụ là logic, nó phải có một nguyên nhân bên ngoài.
Do đó chủ nghĩa vô thần vi phạm các định luật của lý lẽ và logic.
Định lý Bất toàn của Gödel chứng minh một cách dứt khoát rằng khoa học không bao giờ có thể lấp kín những lỗ hổng của chính nó. Chúng ta không có lựa chọn nào khác là nhìn ra bên ngoài khoa học để tìm câu trả lời.
Tính Bất toàn của vũ trụ không chứng minh cho việc Chúa tồn tại. Nhưng… đó LÀ chứng minh cho nhận định rằng để kiến tạo nên một mô hình vũ trụ hợp lý thì niềm tin vào Chúa không chỉ logic 100%… mà đó là điều cần thiết.
5 tiên đề của Euclid không thể chứng minh một cách hình thức và Chúa cũng không thể chứng minh một cách hình thức . Nhưng… giống như bạn không thể xây dựng một hệ thống hình học chặt chẽ mà không có 5 tiên đề của Euclid, bạn cũng không thể xây dựng một lý thuyết mô tả vũ trụ chặt chẽ mà không có Nguyên nhân Ban đầu và một Cội Nguồn của trật tự.
Do đó đức tin và khoa học không phải là kẻ thù của nhau, mà liên minh với nhau. Điều đó đã đúng trong hàng trăm năm, nhưng đến năm 1931 thì nhà toán học trẻ gầy ốm Kurt Gödel đã chứng minh điều đó.
Không có thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại đức tin vào Chúa lại trở nên có lý hơn, logic hơn, hoặc hoàn hảo hơn bằng khi nó được hỗ trợ bởi khoa học và toán học.
Perry MarshallPhạm Việt Hưng dịch

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2018

Phú quý rốt cuộc có đúng là do Trời định? - lá số chiêm bốc (bác Kim Hạc)

Lá số chiêm bốc : 16/10/2018 12h08'

*** Phú quý rốt cuộc có đúng là do Trời định?

Người xưa có câu: “Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại Thiên”, nghĩa là sinh tử của người là do vận mệnh quyết định, phú quý là do Trời định. Trong cuốn “Hội Xương Giải Di” thời nhà Đường có ghi chép lại câu chuyện về quan lệnh sử Khúc Tư Minh thản nhiên trước công danh phú quý, nhìn trước được mệnh Trời khiến Thượng thư Triệu Đông Hy bội phục.

Triệu Đông Hy là Thượng thư Bộ Lại. Bộ Lại tham gia vào việc tuyển trạch quan viên, mỗi năm đều tuyển trạch quan lại cho các phủ quan, chiếu theo thông lệ thì mỗi người có thể tuyển một viên ngoại. Đợi đến khi bàn luận việc tiến cử người thân của mình, thì mọi người đều xin được tiến cử.

Có một người tên là Khúc Tư Minh, trong suốt hai năm, nghe nói ông đều không tiến cử bản thân mình hay bất kỳ ai. Đông Hy nói với ông rằng: “Tuyển quan viên là bình thường. Trong phủ cần có quan vị, hoặc tuyển người khác cũng sẽ có lợi ích”. Tư Minh vẫn không nói gì, chỉ ậm ừ đáp lại rồi lui về.

Đông Hy càng lấy làm kỳ lạ hơn. Một ngày, ông triệu Tư Minh đến và nói: “Dựa vào quyền thế của tôi hiện nay, với hơn 3.000 người đang trong quá trình chờ được tuyển chọn, chỉ cần tôi động động bút, là có thể từ nghèo thành giàu, vứt bỏ bần hàn đắc được phú quý, hoặc đói hoặc no, đều do bút của tôi quyết định, mỗi người ai cũng đều tiến cử, duy chỉ có ông không nói gì cả, là nguyên nhân gì vậy?”.

Tư Minh nói: “Sinh tử của người là do vận mệnh quyết định, phú quý là do trời định, quan chức nên tới thì đã tới, chưa được thì cũng đâu cần phải buồn bã? Hơn 3.000 người, một quan một danh, đây đều là vận mệnh quyết định, chỉ là mượn nét bút của Thượng Thư ngài thôi. Tôi tự biết là vận mệnh của tôi vẫn chưa hanh thông, vì thế không dám đem chuyện này ra làm phiền ngài”.


Đông Hy nói: “Nếu đúng như lời ông nói, thì ông đúng là một người tài năng, vậy ông có thể biết được họa phúc của mình chăng?”

Tư Minh nói: “Tài năng thì tôi không dám nhận, Tư Minh tôi đây, năm sau chắc chắn sẽ được Thượng thư tặng cho chức quan, vì thế cũng không có thỉnh cầu”.

Đông Hy nói: “Năm sau sẽ làm chức quan gì?” Tư Minh đáp: “Việc này tôi đã quên rồi”.

Đông Hy nói: “Sao lại như vậy?” Tư Minh nói: “Vậy hãy để tôi viết ra ngày tháng tôi nhậm chức, nhận được bổng lộc bao nhiêu, lại xin Thượng thư cùng niêm phong lại. Nhờ ông khoét một chỗ nhỏ trên bức tường phòng khách, giấu vào trong, rồi lấy bùn đất đậy kín lại, vào ngày nhậm chức năm sau nếu có sai một chữ, tôi sẽ chết ngay dưới bậc thềm này”. Nói xong liền từ biệt rời đi.

Đông Hy không nói gì, nhưng trong tâm lại trách Tư Minh quá cuồng vọng, nghĩ bụng muốn phê cho người khác làm quan. Đột nhiên một hôm, Hoàng thượng tới suối nước nóng thì thấy hươu trắng bay lên trời, thế là đổi huyện Hội Xương thành huyện Chiêu Ưng. Lệnh được đưa đến Bộ Lại, lệnh cắt cử người làm quan ở đó, Đông Hy lập tức cắt cử Tư Minh đến huyện đó.

Đợi đến khi sự việc này kết thúc xong, Đông Hy triệu Tư Minh lại hỏi: “Hôm qua Hoàng thượng đi suối nước nóng, thấy bạch lộc thăng thiên, bèn đổi tên huyện đó thành Chiêu Ưng. Huyện đó cùng Trường An mười nghìn năm cũng sẽ không giống nhau, hiện tại tôi đã đăng ký cho ông làm quan tại đó, vậy chẳng phải những lời ông nói đều sai sao? Làm sao có thể tiên đoán trước được?” Tư Minh nói: “Thế mời ông khoét tường kiểm nghiệm thử xem!”

Đông Hy lập tức cho mở tường có niêm phong, chỉ thấy Tư Minh viết rằng: “Trong tháng này, Hoàng thượng sẽ đến suối nước nóng và đổi tên huyện thành Chiêu Ưng, được ban cho chức quan đó, còn có bổng lộc được nhận”. Không sai một chữ. Đông Hy vô cùng kinh ngạc, từ đó về sau có việc gì thì đều phái người hỏi Tư Minh, giống như Thần linh ứng nghiệm vậy.

(Theo “Phú quý thiên định” – Minh Huệ Net)




** Bài Test mùa Thu .

Các bạn phải dùng lá số TVCB bên trên ( Mệnh : Cơ -Lương -Mộ tại Thìn ) để trả lời .

* Câu hỏi :

1/ Hoạ = ? .( Cung , hay Sao gì )
Phúc = ?

2/ Không tiến cử = ?

3/ Diễn tả " Phú quý " . ( Phú = giàu . Quý = vinh hiển, nhàn nhã ) .
4/ Nhân tài , người có Tài = ?
5/ Quan vận chưa được hanh thông = Sao nào ( hay bộ sao nào ) cản trở con đường Quan lộ trong lá số này ?

6/ Mệnh cung lá số CB này ( Cơ- Lương Đà Kỵ ... ) chỉ cho ai / hoặc cho cái gì, điều gì ?
Giải thích .

7/ Thai -Trù = ?
8/ Bùn đất = ?
9/ Quyền -Lợi = ?
10/ Võng lọng = ? ( dùng khi đón rước quan Trạng . )

11/ Kình -Hổ = con gì ?
12/ Cơ-Lương có nghĩa là gì ( in this case ) .
13/ Đà -Kỵ có nghĩa gì ?

14/ Dịch chữ : Mã -Cáo- Trường sinh .

15/ a. Suy -Khôi = nghĩa là gì ? ( Khôi = bức tường )
b. Ấn -Khôi = ?

16/ niêm phong = là sao gì ?
17/ Thăng thiên = ?
18/ Rất mực ứng nghiệm ( ko sai 1 chữ ) = ?

19/ Thanh long -Hoả tinh = là gì ?

20/ Dịch câu ( tôi sẽ ) " chết ngay dưới bậc thềm này " trong bài.

------------------------------

Đề Giải bài Test mùa Thu :

1/ Hoạ = ? .( Cung , hay Sao gì )
Phúc = ?

-Các bạn nào dùng Cung Ách ( Hoạ ) & Phúc ( Phúc ) đều đúng. Tuy rằng cái đúng này rất mực tương đối.

-Dùng sao để lý giải thì hơi phiền phức , vì Phúc / Hoạ có nhiều loại khác nhau .
ko thể nói đúng sai vì tuỳ theo case và tuỳ cái nhìn cá nhân , như tôi thấy $ là Phúc nhưng bạn
xem $ tuy là Phúc , nhưng cũng là cội rễ của tai hoạ . Tôi cho Tình ( Đào-Hồng-Hỷ ) là Phúc nhưng
có bạn lại phủ nhận.vv
Sách vở đề cao sao Th Đồng là Phúc tinh , nhưng trên thực tế ko hẵn như vậy.

Trong 1 xã hội văn minh , nhân ái thì Th Đồng phát huy được tác dụng hoà đồng của nó , nên ít xảy ra tai hoạ .
trong 1 xã hội tàn bạo , bất chấp thủ đoạn thì Th Đồng bị hiếp chế vì khiếp nhược và hiền lành quá .Đó là lý do sách nói Th Đồng ngộ Hoả -Linh / Ko -Kiếp = bất cát .
Đồng -Hoả Linh tựa như 1 em bé sinh ra , lớn lên trong khung cảnh chiến tranh và loạn lạc . Đồng - Ko -Kiếp là bị hiếp chế, cướp đoạt , mất $ mất con . Th Đồng lúc đó như 1 em bé gặp nạn .
nên ko thể coi như Phúc tinh.

2/ Không tiến cử = ?

Tiến cử gồm 3 chữ : Mộ / Suy / Tả hữu Phù trì .
Tả Hữu Phù Trì thì quá rõ ràng rồi , phù trì là khuôn phò, giúp trỡ , trợ lực ..
Tả Hữu vừa chỉ bạn bè hoặc người dưng , vừa chỉ sự trợ lực .

Mộ = chiêu hiền đãi sỹ, khi chiêu mộ thì thường có tiến cử đi kèm , nhưng chữ này gốc nó chính là chiêu mộ .
Suy = tiến cử .

như vậy : Mộ -Tuần hay Suy -Triệt hay Tả Hữu Phù Trì ngộ Đà Kỵ / T&T = đều là ko tiến cử .

* Kình dương -Lực sỹ = Ko được tiến cử , các bạn nào trả lời câu này cũng đúng.

Kình -Lực là ra công làm hùn hục như trâu , công trạng có khi rất lớn, nhưng vì ..ko biết nịnh hót , lấy lòng chủ nhân hoặc ko biết cách lobby nên ko mấy khi được đề bạt , tiến cử .

3/ Diễn tả " Phú quý " . ( Phú = giàu . Quý = vinh hiển, nhàn nhã ) .

A/ Phú Quý = Vũ -Phủ , Song Lộc - Quang-Quý / hay Quyền Quý - Thai Toạ ...( Khúc xương -Long Phụng )
B/ Hạn vận / cách cục có Tam Hoá hay Tam Hoá Liên châu (ko Phá cách ) = Phú quý , đều đúng .
.
-Bạn nào dùng TV -Th Phủ -Lộc + Cát tinh = Phú quý cũng đúng .

4/ Nhân tài , người có Tài = ?

A/ Cơ -Lương = nhân tài , hiền tài .

Và tại Thê cung :

B/ Nhân tài = sao Thiên tài.
Khoa -TTài = kẻ có tài cao. Tài liệu dùng trong 1 môn học .
Cự -Dương + Đại Khoa -TTài = kẻ có danh tài lừng lẫy , to lớn.
Cự -Dương = danh tiếng . Đại Khoa = to lớn , kẻ thi đậu cao hay có quan chức lớn.

Quan lộc là danh phận, danh chức , khi quan VCD tức chẳng có quan chức gì hết, nhưng tuy VCD nhưng các sao cư Thê chính chiếu quá đẹp nên sau này có thể trở thành 1 nhân vật lừng lẫy.

- Bộ Mã Khốc điếu có 2 nghĩa rất phản diện :

Quan cung :
* Mã Khốc điếu = thất tha thất thiểu. vô danh phận, thất nghiệp.
Mã là năng lực , tài năng . mà dùng ko đúng chỗ hay ko được trọng dụng .
Mã -Hao = hao phí tài năng , phí tận nhân lực .

* Mã Khốc điếu = khi gặp vận hên thì Quan chức cao thăng, khi này chữ Mã- Khốc ko còn có nghĩa là oán than kiếp ngựa kéo xe nữa
, sẽ biến thành 1 con nhàn mã . Khách là người cỡi ngựa .
Mã Khốc điếu sẽ biến thành Mã khốc Khách , ngựa nhàn đi khoan thai , chậm rãi.


5/ Quan vận chưa được hanh thông = Sao nào ( hay bộ sao nào ) cản trở con đường Quan lộ trong lá số này ?

A/ Đà -Kỵ = cản trở , chướng ngại .
B/ Thân cung : Cơ-Lương -Tuần = cơ hội tốt ( để tiến Thân ) bị Tuần = Tuần là chờ đợi,lần khần, lần lữa , kéo dài thời gian

vì 1 lý do nào đó .( ví như Hình Riêu KK ngộ Tuần cũng khó ly dị , vì cứ kéo dài ra ).

* Trả lời A hay B đều Đúng .
** Cơ -Lương + Đà Kỵ / Tuần Đà Kỵ cũng Đúng .
*** Quan : Tang Mã khốc điếu Hao cũng đúng.

6/ Mệnh cung lá số CB này chỉ cho ai / hoặc cho cái gì, điều gì ?

Mệnh cung = chỉ cho anh X Tư Minh .

= chỉ cho Quan vận khi chưa hanh thông hay 1 thư lại chưa đắc thời .
= Người tài lương đống .
= Chỉ cho 1 Viên ngoại .
Viên là Tử vi viên , tức cung đình . Ngoại là đứng bên ngoài ,vậy Viên ngoại là 1 nhân sỹ chưa được Tham chính .

đều Đúng.

7/ Thai -Trù = ?

= dự đoán, tiên đoán, trù liệu, hoạch định ( planning ) .
lên kế hoạch , Kế hoạch đang được dự trù . dự tính ,dự định .Tiên liệu, dự liệu .

8/ Bùn đất = ?

Địa kiếp / H Kỵ .
Kiếp -Kỵ
Riêu -Kỵ . đều đúng.

9/ Quyền -Lợi = ?

= Quyền - H Lộc .

10/ Võng lọng = ? ( dùng khi đón rước quan Trạng . )

= Địa Võng -Hoa Cái .





11/ Kình -Hổ = con gì ?

Trong bài này Hổ -Kình = hươu trắng .
Hổ -Kình = cũng là con thằn lằn . hay voi trắng, voi đá . cọp chực cắn.

12/ Cơ-Lương có nghĩa là gì ( in this case ) .

Cơ-Lương = kẻ có Tài . Lại nhân . Lương đống . Thiện lương.

Cơ hội tốt. đều đúng.

13/ Đà -Kỵ có nghĩa gì ?

= sự Cản trở .trở ngại.

14/ Dịch chữ : Mã -Cáo- Trường sinh .

= nhậm chức phương xa . Áo gấm về làng . Mã đáo thành công , đều đúng.

* Mh & QC giải thich đúng câu này. 1 số bạn giải thích Áo gấm về làng cũng tạm được .

15/ a. Suy -Khôi = nghĩa là gì ? ( Khôi = bức tường )

= đục lỗ vào tường . bức tường đổ nát , suy sụp.

b. Ấn -Khôi = ?

= nhét vào tường .
Ấn = đè, nén, ép, nhấn. press .

16/ niêm phong = là sao gì ?

= Phong cáo. hay Triệt / Ấn -Triệt .

17/ Thăng thiên = ?

= Phi -Thiên ko .

Như máy bay trực thăng = PLiêm -Trực phù .
Các loại côn trùng có cánh = Kiếp sát -Phi -Th Ko .

18/ Rất mực ứng nghiệm ( ko sai 1 chữ ) = ?

Linh = Ứng nghiệm .
Linh -Riều = Lời tiên đoán ứng nghiệm.
Tuyệt -Linh / Tuyệt -Y- Linh = rất mực ứng nghiệm .

19/ Thanh long -Hoả tinh = là gì ?

= Suối nước nóng. Rồng đỏ . Cá nướng .

20/ Dịch câu ( tôi sẽ ) " chết ngay dưới bậc thềm này " trong bài.


*** = Trực phù -Phục -Tử - Y -Liêm -Phá .

Liêm = Thềm nhà . Liêm -Phá = bực thềm , thềm nhà và tam cấp, bực cấp .

Trực phù = ngay. ngay thẳng , đi thẳng , đối diện.

Ví dụ 1: - Vợ tôi về nhà là đi thẳng vào bếp =

Thê cung -Tuần -Âm + Trực - Hoả -Trù .

VD 2 : Âm -Cơ -Trực phù đối chiếu Mệnh cung = nhà chị tôi ở phía đối diện ( căn nhà của tôi ).

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018

Chế hóa trong tử vi (Alexphong)

Lục sát tinh gồm có 3 cặp sao: Không Kiếp, Hỏa Linh, và Kình Đà. 

Không Kiếp chuyên khắc phá Tử Phủ. Trong khi Tử Phủ không hề ngại Hỏa Linh. Không Kiếp hại Tử Phủ đại diện thế lực chính quy, nhưng rất hợp Phá Quân âm thủy về tính chất cũng như ngũ hành. Thứ nhì, là hợp Thiên Tướng dương thủy về tính lý nhưng ngũ hành kém hợp hơn Phá Quân vì âm dương sai khác nên khắc chế không hiệu quả. Hơn nữa, dù sao Thiên Tướng cũng là chính quy, khó có thể hợp sự vô nguyên tắc của Không Kiếp như Phá Quân được. 

Muốn chế Không Kiếp, phải dùng Quang Quý. Chế được rồi muốn hóa được ra thành công thành quả thì phải có Khôi Việt. Cho nên chế hóa Không Kiếp cần Quang Quý Khôi Việt. Nói chế hóa cũng không hẳn đúng, mà thực ra đó là cách cục mà sát tinh thành công, tính sát đắc dụng mà quý hiển.

Hỏa Linh thì có khác một chút, có thể nói cùng Không Kiếp tạo thành cặp phản đề. Hỏa Linh là hỏa nhưng có tượng là ngọn lửa, tức ít ra còn có lúc là lửa thật, chứ không phải hỏa khí hỏa tính như Không Kiếp. Cho nên gán Hỏa Linh cho dương, Không Kiếp cho âm không phải không có lý. Hỏa Linh là khắc tinh của Cơ Nguyệt Đồng Lương, bộ sao thủy mộc có tính chất ôn hòa lương thiện. Gặp Hỏa Linh như đồng khô cỏ cháy, như người lương thiện nhưng suốt ngày cáu bẳn thành ra khó nói là lương thiện. Nhưng Hỏa Linh hợp với Tham Lang. Hỏa Linh là ngọn lửa cho tham vọng của Tham Lang bùng cháy. Với phụ tinh, Hỏa Tinh là khắc tinh của Bạch Hổ, nhưng khắc tinh ở đây không phải chế hóa con hổ này mà làm con hổ này phát điên cắn phá lung tung. Cho nên nếu thấy Hổ lại thấy Hỏa Tinh là coi chừng tác họa của Hổ. Khi đó, cần có Thiên Phúc thì có thể hóa giải được họa Hỏa Tinh+Bạch Hổ.  Muốn chế hóa Hỏa Linh, cần dùng Thai Tọa Quan Phúc. Ở đây Quan Phúc để chế, có thể chế bớt hỏa tính của Hỏa Tinh. Thai Tọa để hóa, có thể đưa tổ hợp Quan Phúc Hỏa Linh đến thành công.

Đến đây, ta nắm vững được cách chế hóa tứ sát thuộc hành hỏa là Hỏa Linh Không Kiếp. Nhưng đừng nhầm thuốc nọ cho bệnh kia. Dùng Khôi Việt cho Hỏa Linh, và dùng Quan Phúc cho Không Kiếp là đại họa râu ông nọ cắm cằm bà kia. Sự đời nhiều thứ hao hao, sai một li là đi một dặm. Khôi Việt Hỏa Linh là cách cục sét đánh đỉnh đầu, trời đã phải đánh thì biết nó trái lý âm dương tới mức nào. Còn Quan Phúc Không Kiếp là những Quan Phúc phải chịu thử thách ghê gớm (theo lý của tác giả VDTT) đạo đức làm người, chứ không phải những thầy tu đạo mạo như Quan Phúc Hỏa Linh. Tu là phải có đèn nến hương khói. 

Cuối cùng là bộ Kình Đà. Bản chất sát tinh của Kình Đà có khác so với tứ sát còn lại. Với chính tinh, Kình Đà là khắc tinh của Nhật Nguyệt, nhưng rất hợp với Thất Sát. Vì Kình Đà chủ sự sai lệch, đứng hai bên Lộc Tồn chủ sự chuẩn mực. Đà là muộn quá, còn Kình là sớm quá. Đà là tự kỷ còn Kình là tăng động. Đều không hợp với Nhật Nguyệt. Nhật Nguyệt định thời gian thì phải chuẩn mực cần đi với Lộc Tồn, đi với Kình Đà thì đồng hồ sai, lịch xé nhầm. Xét về ngũ hành thì tính hợp và khắc của tinh đẩu rất phong phú đa dạng. 

Mỗi chính tinh quản một cặp sao. Phá thì quản Không Kiếp, Tham thì quản Hỏa Linh, Sát thì quản Kình Đà. Nhưng Hỏa Linh Không Kiếp đều có các bộ sao đi kèm để đưa đến thành công là Thai Tọa Quan Phúc và Quang Quý Khôi Việt, còn với Kình Đà là gì.

Với Kình Đà, là bộ Long Phượng. Trong đó, Kình Dương hợp với Các, vì Kình là bay lên, Phượng là đôi cánh, bay lên mà không có cánh thì lượn làm sao. Đà La hợp với Bạch Hổ vì Đà La là chìm xuống nằm xuống, mãnh hổ nằm phục xuống rình con mồi và trốn thợ săn. 

Thất Sát hợp Kình Đà cho thấy bộ Sát Phá Tham rất hợp Long Phượng Hổ Cái. Ta biết Sát Phá Tham có thể coi là điểm trũng của lá số tử vi, nơi hàm chứa những gì xấu xa tội lỗi nhất, nếu Tử Phủ là đỉnh núi cao thì Sát Phá Tham là vũng lầy, cho nên Sát Phá Tham rất cần thành công (Phượng Các) để khẳng định mình hữu dụng, rất cần chính danh (Long Trì Bạch Hổ) để được thừa nhận mình là quân chính quy chứ không phải bọn trộm cướp võ biền. Sát Phá Tham khát khao Long Phượng Hổ Cái hơn bất cứ nhóm sao nào khác. Điều đó ẩn chứa sau sự chế hóa của Kình Đà.

Tử Phủ Vũ Tướng cần Tuế Hổ Phù, sự chính danh, sự chính thống của vương triều hơn bao giờ hết. Tử Phủ Vũ Tướng không cần tiền, không cần quyền, chỉ cần chính danh. Chính danh sẽ có quyền tiền. 

Sát Phá Tham cần Phượng Các, sự thành công từ gian khó, sự thành công từ đối nghịch. Đối nghịch Tang Tuế Điếu mà không có thành công thì nói không ai nghe. Phản truyền thống, phản trào lưu mà không có thành công thì không ai ủng hộ. Nên với Sát Phá Tham thì Phượng Các mới là ưa thích nhất, thứ nhì mới là Tuế Hổ Phù. Cho thấy bộ Tang Phượng hành động rất mạnh mẽ, mạnh mẽ nhất trong vòng thái tuế.

Thái Dương, Cự Môn cần Thiên Không, thích tam minh Đào Hồng Hỷ. Lại như Nhật Nguyệt, ta hỏi Nhật Nguyệt có hợp với Long Phượng Hổ Cái. Câu trả lời là không. Vì Nhật Nguyệt không hợp Kình Đà, càng ghét Diêu Đà Kỵ tam ám làm lu mờ ánh sáng của Nhật Nguyệt. 

Thái Dương cần tam minh Đào Hồng Hỷ, bên đó lấp ló ẩn hiện Thiên Không. Thái Dương cần Thiên Không, cần khoảng trống, cần khoảng trời để tỏa sáng hơn là Long Phượng Hổ Cái. Người xưa ẩn ý để Thiếu Dương cùng Thiên Không để phò trợ cho Thái Dương, lại nói xa gần cả Đào Hồng Hỷ là tam minh.

Thái Âm, cùng bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, thích Âm Long Trực, thích tứ Đức. Tục ngữ hay gọi là âm đức là vì thế. Cự Nhật cần sáng, sáng mới là cốt yếu của Nhật, sau đó mới cần đức. Thái Âm cần tứ đức, đức mới là nền tảng của Nguyệt, sau đó mới cần sáng. Cho nên, nếu Thái Dương đi cùng tứ đức, Thái Âm đi cùng tam minh thì cũng tốt nhưng xếp sau trường hợp Dương Minh và Nguyệt Đức.

Thái Dương cần tam minh, thiên không.
Thái Âm cần tứ đức, thiếu âm.

Chỉ có một thứ duy nhất hạn chế được cả lục sát tinh và tam ám. Đó là Không Vong.

-----------------------------------

Linh Tinh đi cùng Đà La hai sao âm, tượng là sét giáng xuống hoặc anh linh sa xuống. Còn Hỏa Tinh dương phải đi với Kình Dương dương ngọn lửa bốc lên cao. Chứ không thể Linh Tinh Kình Dương một âm một dương trái khoáy, tia sét phóng ngược lên trời, Hỏa Tinh Đà La một âm một dương trái khoáy ngọn lửa bốc chui xuống thấp được. Cho nên trong cách cục kinh điển có cách cục Xương Linh Đà Vũ chứ không có Xương Linh Kình Vũ hay Xương Hỏa Đà Vũ. Người am hiểu sẽ tự hỏi vì sao trong cách cục Xương Linh Đà Vũ chỉ có sao Văn Xương là sao dương, còn lại toàn sao âm ?

Cơ bản độc giả cần phân biệt: đồng bọn và người yêu. Đồng bọn phải cùng tính âm dương cùng sở thích như bóng đá, lý số, ăn nhậu thì chơi với nhau mới thú, chứ đồng bọn mà người thích bóng đá kẻ thích bóng chày thì không nói chuyện với nhau được. Còn người yêu và người phối ngẫu phải trái tính âm dương, bổ khuyết cho nhau, người thâm trầm thì hay yêu người hoạt ngôn, người phóng khoáng thì hay yêu người ngăn nắp, đó là phối. Trong tử vi tam hợp là đồng bọn, nhị hợp là phối ngẫu.

Phải nắm thật vững tính âm dương của đồng bọn và người yêu mới hiểu được cách phối sao.

Quang Quý không hề là đạo đức, chỉ là sự may mắn, sự giác ngộ. Đạo đức do các sao tứ đức thủ diễn.

-------------------------------------

các sao thổ như tử vi, thiên lương ít sợ hóa kỵ vì lẽ thổ khắc thủy và cũng không bao giờ hóa kỵ cả.

Tử Phủ thích Tả Hữu hơn Xương Khúc.
Nhật Nguyệt thích Xương Khúc

TPVT SP không ngại Hóa Kỵ bằng Cự Nhật Nguyệt Tham nhưng Cự Nhật Nguyệt Tham lại không sợ Tuần Triệt như Tử Phủ. Rồi mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương không hợp Sát Phá Tham

Tuế Phù Hổ (Tứ Linh chính vị)
Tang Tuế Điếu (Đặc sản Lộc Mã giao trì).

Nói chung, âm dương nghịch lý chỉ hợp cho mệnh Cự Nhật Cơ Nguyệt Đồng Lương. Khi đó có Tam Minh Tứ Đức thủ diễn. Còn âm dương thuận lý hợp cho Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham.

Phủ ngại Tuần, Tướng ngại Triệt. Tất nhiên, cả hai chẳng ưa gì Tuần Triệt, ở đây chỉ cân phân cụ thể hơn.
Địa Không ngại Tuần, Địa Kiếp ngại Triệt.

Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham không sợ Kỵ mà chỉ sợ Tuần Triệt, còn Cơ Nguyệt Đồng Lương ngược lại chỉ sợ Kỵ mà chẳng ngại Tuần Triệt

Vô Chính Diệu thích Triệt hơn Tuần ? Mệnh Không thân Kiếp không hợp Đồng Lương. Mệnh Triệt thân Tuần cũng không hợp Cơ Nguyệt Đồng Lương mà hợp VCD. Điều này càng khẳng định sự tương ứng giữa Mệnh Không thân Kiếp và mệnh Triệt thân Tuần. Phải chăng Triệt hợp với Không còn Tuần hợp với Kiếp ?

VCD hợp Triệt hơn Tuần, đến giờ bạn hiểu thêm Triệt là đóng, vì đóng nên ngôi nhà trống vô chính diệu đã có cửa không còn trống nữa. Qua đó, bạn hiểu thêm Tuần là mở. Nghe sao giống Triệt là tách ra, Tuần là gom vào, mà lại rất hợp lý

Với chính tinh hãm địa, hoặc cung VCD, nhận định ban đầu là xấu. Nhưng khi có Tuần Triệt án ngữ, cung đó được coi là tốt, nhưng bạn chú ý, người xưa mô tả cái tốt này rất hay. Cái tốt này không thô lỗ chóng vánh ngay tắp lự, mà sách viết "trước khó sau dễ" tức tốt lên từ từ. Tuần Triệt cải hóa cung nó tác dụng một cách từ từ. Qua đó cũng hiểu cho hoàn cảnh của chính tinh miếu địa gặp Tuần Triệt, bạn có thể luận trước tốt sau xấu, xấu đi từ từ. Nhưng luôn luôn có hạn chế cho cung có Tuần Triệt như "trước khó kiếm tiền sau dễ, nhưng không thể giàu có lớn được". Khi Tuần Triệt đóng cung phụ mẫu. Thì nhận định tốt xấu của cung để đoán định sự giàu nghèo sang hèn của cha mẹ của cha mẹ nhưng dù tốt hay xấu thì cũng khắc và xa song thân. Đó cũng là mẫu số chung khi Tuần Triệt đóng cung lục thân.
Ngoại trừ một trường hợp, đó là cung VCD. Cung VCD có ba mức tốt xấu. Tệ nhất là VCD, tốt hơn là VCD có Tuần Triệt án ngữ, đẹp nhất là VCD vừa có Tuần Triệt án ngữ vừa có Nhật Nguyệt sáng sủa xung chiếu hoặc hợp chiếu. Tuần Triệt lúc đó được hiểu như lực lượng câu hút ánh sáng đồng thời giữ ánh sáng lại cho ngôi nhà trống.


Tính chất thời gian của Tuần Triệt giống tính chất thời gian của sát tinh. Bạn có chú ý, sát tinh miếu địa chỉ tốt ban đầu, càng về sau càng xấu. Không những sát tinh, kể cả bại tinh đắc địa cũng có cùng tính chất. Tại sao tử vi lại áp đặt tính chất này lên sát bại tinh mà không phải ngược lại là trước xấu sau tốt. Có lẽ phương Đông trọng hậu hơn. Cái gì tốt nhưng phải bền mới cho là tốt, cái gì xấu nhưng thoáng qua thì họ cho là thử thách. Cả đời khổ thế nào cũng được, nhưng cuối đời tốt đẹp coi như cuộc đời có hậu, hơn nhiều cuộc đời sướng trước khổ sau. Hoặc có thể đó là quy luật của vũ trụ này mà người phương Đông khám phá ra, cái gì thuộc về bản chất sẽ bộc lộ sau cùng. Cho nên bản chất của sát tinh vẫn là xấu, không thể thay đổi. Ngược lại, với Thái Dương hãm địa, sách cho rằng càng về già càng tốt hơn.
Phải chăng, người xưa coi miếu hãm là cái vỏ ngoài, còn bản chất tinh đẩu là bên trong. Đây là điểm khá thú vị của tử vi nhưng người mới học thường bỏ qua.

-----------------------------------
Đào Hồng chỉ chủ tình dục khi và chỉ khi gặp Thai. Đào Hồng chỉ chủ ngoại tình khi gặp Phục Binh. Còn nếu không gặp hai sao trên Đào Hồng chỉ mang ý nghĩa đẹp sặc sỡ, duyên nói chung. Đừng mới thấy Đào Hồng đã phán bừa. Đào Hồng Không Kiếp không có tình dục mà là đại họa vì khi đó Đào là Kiếp Sát còn Hồng Loan là máu. Đào Diêu chủ dâm hơn chủ dục. Thai Phục Vượng Tướng là cách cục quan hệ tình dục lén lút, không có Đào Hồng đi kèm thì có khả năng không có tình yêu hoặc có yêu nhưng không bền. Còn Đào Hồng đi cùng tam ám Diêu Đà Kỵ mới có sự dối lừa, vì tam ám chủ dối lừa, nếu không có Đà Kỵ thì không có sự dối lừa nhau.


Trong tử vi có một tuyệt kĩ liên quan tới tình ái đó chính là Tam minh.
Tam minh gồm có: Đào Hồng Hỉ.

Đào Hoa mang theo sự quyến rũ về mặt giới tính. Thứ thuộc về bản năng gốc của con người.
Hồng Loan chính là sự thăng hoa về tinh thần trong tình ái. Yêu chứ, nhưng không phải là chiếm hữu bằng bản năng gốc. Đôi khi chỉ đơn giản là sự đồng điệu về mặt tâm hồn.
Thiên hỉ thì sao? Thiên hỉ quan trọng lắm. Tôi cho rằng Thiên hỉ quan trọng nhất trong tam minh. Là bởi vì Thiên Hỉ ẩn tàng trong nó sự kết tinh/ kết quả của tình yêu.

Đã từng viết một bài về Đào Hoa Địa Kiếp - Nửa hồn thương đau
Lại từng viết bài về Hồng Không Cô Quả - Em Khoảng Trống và Tôi.


Hình Riêu Không Kiếp thì tối kị rơi vào mệnh số đàn bà, chủ bị bạc tình, chồng phụ tình đi theo gái (Riêu nằm bên cánh trái chiếu về), nếu gặp thêm Kị, Phục thì chồng sẽ đi mà không bao giờ trở lại (Kị Phục = cấm kị trở lại, không quay về)

---------------------------------------
Nếu khí dương Bắc Đẩu đại diện cho Lửa (Thái Dương) - Chinh phục - Danh Tiếng - Quan Lộc. Thì khí âm Nam Đẩu đại diện cho Nước (Thái Âm). Thái Âm là tinh túy của nước - Bao Dung - Của Cải - Điền Trạch. 

Ngoài ra, Dương chủ quản ngày Âm chủ quản đêm. Âm Dương còn là hai con mắt.

Dương chủ Nam, Âm chủ Nữ. Dương chủ Tuấn Tú, Âm chủ Tuấn Nhã. Dương chủ Cha, Âm chủ mẹ. Dương chủ chồng, Âm chủ vợ. Dương chủ con trai (Thiếu dương), Âm chủ con gái (Thiếu Âm). Âm Dương tối kỵ lục sát tinh phá. Âm bị lục sát phá, cơ cấu gia đình bất ổn. Người mẹ dễ còn vấn đề, người vợ dễ có vấn đề. Kình Đà dễ chia ly, Linh Hỏa lao tâm khổ tứ, Không Kiếp thì trầm luân đa đoan.

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2018

Tạp ghi 1 số cách xem vận khác, và xem vận tháng

+, Tiểu vận thì xem trọng cung vị do vậy tiểu vận khi xem thì trọng ở cung nó đóng. Tiểu vận đến cung nào thì năm đó có liên quan mật thiết đến cung đó. và đặc biệt chú ý đến các sao được an theo Địa chi. ví dụ tiểu vận vào cung Tài thì năm đó có liên quan đến tiền bạc, nếu Cung Tài có Thiên không thủ thì năm đó dễ mất rất nhiều tiền hay làm ăn thất bại, tiểu hạn vào cung Tật mà có Kiếp sát (được an theo Tam hợp năm sinh) thì rất dễ có tai nạn, tật bệnh, hình thương.

+, Lưu thái tuế là chúa tể của một năm nên chỉ xem Cát Hung. khi xem Lưu thái tuế cần đặc biệt chú ý đến Tứ hoá đại vận, Lưu Kình Đà đại vận, Tứ hoá Can năm hạn và lưu kình đà năm hạn, có cậu "Thái tuế nhờ Kình Đà mà dẫn động lưu hành". Lưu thái tuế mang tính động, là vua của 1 năm, nắm quyền sinh sát, gặp Cát thì tất cát, gặp hung thì rất hung, nếu là Cát thì càng Cát, nhưng bình thường cung đó cát lợi, mà lưu thái tuế đến cung đó, có thêm lưu hóa lộc nữa thì là một năm rất hanh thông, ngược lại cung đó xấu mà có thêm hóa kỵ thì cực xấu. Lưu thái tuế ngoài phát động còn có tính chất phóng đại vận hạn tốt xấu.

+, lưu niên đại vận xem cát hung cụ thể của Đại vận, nên cần phối lưu niên đại vận và đại vận.

Ví dụ:

Trên lá số nguyên thủy thì lưu thái tuế vào cung phụ mẫu, nên sẽ có 2 thứ 1 ứng vào Phụ mẫu. 2 nếu cung đó cũng đồng thời là cung lưu phu thê (tính theo di cung, của lưu niên đại vận), thì cũng có thể ứng phu thê nữa, hoặc ứng cả 2. đồng thời cung lưu phu thê cũng xung cung lưu quan, rồi tam hợp với lưu Di, lưu Phúc. nên có thể ứng vào bản thân mình như mất nhiều tiền, công việc kém sút. rồi cung phụ mẫu cũng xung với cung Tật, thì có thể năm đó mình bị bệnh....luận số vận hạn là rất linh hoạt, không thể theo 1 cách được.

+, Sách Tử vi Đẩu số Toàn thư viết "đại vận phát từ Trường sinh đến Đế vượng, rồi lại phát từ Thai đến Trường sinh", cho nên Đại vận suy kém từ Suy đến Tuyệt. vòng trường sinh biểu diễn biến hóa của ngũ hành nạp âm Cung An mệnh, nên nó giống như vòng đời sinh lão bệnh tử của con người. cho nên Đại vận từ Sinh đến Vượng là phát, từ Suy đến Tuyệt là dễ phá bại.

+ Vòng trường sinh dùng để định mạnh yếu của Cách Cục, như Tử Phủ Vũ Tướng mà ở nơi Thai, Mộc dục thì kém hẳn ở Đế Vương hay Quan đới. đó là định vị mạnh yếu của Cách Cục. trong luận đoán đê dễ dàng chỉ cần nhìn vị trí Vòng Trường sinh cùng Cách cục và tứ hóa đại vận + kình đà lộc tồn là được.

+, Đại vận chính là "lưu mệnh" hay dòng thời gian của cuộc đời trôi về đó. Cung Mệnh ảnh hưởng trực tiếp xuyên suốt cuộc đời, cho nên những gì có ở Cung Mệnh sẽ được biểu hiện ở vận hạn. ví dụ một người có số đi tù, thì chỉ đi tù trong khoảng nào gian nào đó, ta nhìn Cung Mệnh có cách đi tù, đến Đại Vận có cách đi tù thì ứng nghiệm sẽ đi tù ở vận này, Đại vận có cách đi tù đến Tiểu vận cũng có cách đi tù thì nhất định sẽ đi tù năm đó. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của việc xem Vận hạn. một người có số Thương tật do tai nạn thì cung mệnh và Cung Tật có cách hình thương, đến Đại vận cũng có cách hình thường thì ứng vào đại vận này, xem xét Tiểu vận có cách hình thương luôn thì nhất định tiểu vận sẽ ứng.
+ Đại vận chính là Lưu cung Mệnh, cho nên xem đại vận cũng giống như xem cung mệnh. Cần phải xem Cách Cục đại vận giống như cung Mệnh vậy. Đại vận thì có Can đại vận, lưu Thái Tuế thì có Can năm, như vậy về cơ bản 12 năm lặp lại như Can đại vận và Can Năm hạn là khác nhau, từ đó tính chất Cát Hung của Thái Tuế cũng thay đổi, Tứ Hóa Phái đã nói rất hay về vận hạn cát hung bằng Tứ hóa. ngoài ra có thể theo Trung Châu Tam Hợp Phái luận đoán.
-------------------------------

Có 1 số quan điểm về cách chuyển vận của lưu niên tiểu vận tính theo ngày tháng năm sinh

Tính năm tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận - đây là chìa khoá quan trọng trong Tửvi Trong sách vở hiện nay, chưa sách nào chỉ ra cách tính tiểu vận đúng, tất cả đều tính theo cách thông thường, ví dụ, người sinh 15/12/Tân dậu (1981) – nam giới, theo cách tính từ truớc đến nay đều cho rằng năm Ât dậu (2005) tiểu vận sẽ nằm ở cung Mùi, nhưng như vậy là sai lầm. Chỉ khi thực sự thành hình thì con người mới hội tụ đủ ngũ hành và chịu sự tác động của những quy luật tự nhiên và xã hội, nên đến ngày 15/12/ Ất dậu (2005) thì mới đủ 25 tuổi và khi đó vận mới nhập vào cung Mùi. Từ trước ngày 15/12/ Ât dậu vẫn thuộc Tiểu vận ở cung Ngọ. Tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận. Ví dụ: người sinh tháng 6 âm, nửa đầu tiểu hạn năm nay ở tỵ, có lộc tồn chiếu thì phải tốt. Qua tháng 6 vận chạy qua ngọ, bị lưu kình chiếu và các sao ở ngọ thì phải khác.

(trùng kiến thức được chia sẻ bởi lethanhnhi: 1,vấn đề lưu niên và tiểu hạn;sang năm mới là dùng can chi năm an lưu niên thái tuế và các sao lưu, nhưng đúng sinh nhật thì mới thay cung tiểu hạn. 2, mọi người hay nhắc đến lưu tứ hóa nhưng ít thấy ai nhắc tới lưu lộc tồn và kình đà của đại hạn, mà Liễu Vô cực kì chú trọng. 3, Dùng tiểu hạn hay lưu niên 1 trong 2 là đủ, dùng lưu niên thì đơn giản chính xác, dùng tiểu hạn thì trọng sao mà bàn cụ thể. 4. XEM VẬN THÁNG, SAO ĐẨU QUÂN CÒN GỌI LÀ NGUYỆT TƯỚNG,TỨC LÀ LÀM CHỦ THÁNG. việc tìm lưu Đẩu Quân không chỉ để tìm tháng giêng xem vận tháng, mà cung lưu Đẩu Quân cũng được khá nhiều tác giả chú trọng khi xem hạn một năm. Lưu Đẩu Quân an tại cung nào, tất sự kiện cung đó động, có sự kiện nổi bật; dùng nguyệt hạn và dùng luôn 9 sao phi tinh (sao lưu) của năm, nếu nó chạm vào tháng nào thì tháng đó dính. Ngoài ra xem các sao trong tháng đó, đây là kinh nghiệm tính vận tháng = trùng kiến thức của anh Long)

NẾU TRỌNG TỨ HÓA DỤNG THẦN THÌ KHÔNG CẦN 108 SAO, NHÌN THẾ ĐỨNG MÀ ĐỌC RA ĐƯỢC. CÒN DÙNG SAO THÌ BẢN CHẤT SAO ĐÃ NÓI NÊN TẤT CẢ RỒI. ĐÂY LÀ 2 CÁCH GIẢI 1 BÀI TOÁN, KHÔNG VIỆC GÌ PHẢI LÀM CẢ 2, VÀ ĐÔI KHI CHÍNH CÁCH DÙNG CỔ ĐIỂN NHƯ CÁC CỤ NGÀY XƯA LẠI HAY.


------------------------------

LUU THAI TUE LA THIEN THOI. LUU TIEU HAN LA DIEN BIEN (ĐỊA LỢI + NHÂN vì thuận nghịch theo nam nữ); KET QUA LA LUU NIEN DAI HAN (Nhân, vì lưu mệnh về đó)


LNĐV, LNTV, LTT là tam tài thiện địa nhân 

---------------------------
Tinh đồ tùy thời mà mạnh yếu khác nhau. Có khi Tử vi là cực phẩm, có lúc Cự Môn mới huy hoàng. Được thời Thái Dương tỏa hào quang, gặp vận Thất Sát thành tượng đài bất diệt. Nhưng chung quy lại, điểm hơn thua được mất của lá số chính là nằm ở Khát vọng. Tôi tạm gọi đó là điểm G.
Khát vọng của Đồ hình chính là ở các vị trí mạnh nhất của tinh bàn.
Khát vọng của Tứ hóa mạnh nhất ở thời Lộc Quyền hội.
Khát vọng của Tràng sinh chính là ở thời Tràng Sinh
Khát vọng của Thái Tuế nằm nơi tam hợp Thái Tuế.
Khát vọng của tình yêu nằm nơi Đào Hồng Hỉ
Khát vọng của siêu thoát nằm nơi không vong.
Khát vọng của những Khát vọng nằm ở chính Sát tinh.
Khát vọng của ám bại chính là: Điểm dối lừa.




Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

Sưu tầm quan điểm phép lưu cung trong đoán hạn của tác giả vuivui

Di cung và lưu tứ hoá xưa như trái đất. Người nào không biết, ấy chỉ là do không có hoặc chưa có duyên với nó mà thôi. Tôi thì từ xưa tới nay, luận tử vi, lúc nào mà chả dùng đến chúng.
Nó không những đơn giản mà còn đầy khiếm khuyết, cần phải được nhiều phương pháp khác bổ trợ một cách trực tiếp. Nói một cách đơn giản nhất, sự phối hợp, chẳng hạn như: phối phép lưu cung với phép lưu thái tuế và các sao lưu.
Trước hết nói về Đại vận 10 năm.
Nếu không lý đến vận trình, rõ ràng cung an mệnh, đúng là cung an mệnh của lá số xác định toàn bộ cuộc đời. Nói cách khác, cung an mệnh là một cung cuộc đời. Phải chăng, cung mà đại vận 10 năm nó nhập sẽ là cái gì?. Câu trả lời sẽ rất tự nhiên, nó chính là Cung Vận đại diện cho cung an Mệnh khi Mệnh "trôi" tới đó - đó là Mệnh Vận. Vây thì, khi mệnh trôi, tức là mệnh vận dịch chuyển, thì chẳng có lý do gì ngăn cản các cung khác không dịch chuyển theo theo cái thế tương quan bắt buộc. Theo lẽ đó, khi có mệnh vận, đương nhiên tương ứng sẽ có 11 cung vận là phụ mẫu vận, phúc vận, điền vận,....
Nếu chỉ dừng tới đại vận 10 năm. Sẽ rất là đơn giản, và cũng chẳng có gì đáng phải bàn. Vấn đề sẽ phức tạp hơn ở chỗ, khi ta xét đến vận lưu niên, rồi ứng dụng nó để đoán vận. Bởi vì khi xét vận lưu niên, chúng ta có ba cung: lưu niên đại vận, lưu niên tiểu vận và cung lưu thái tuế an vị. Có câu hỏi tự nhiên bật ra: Vậy trong ba cung này, cung nào sẽ là Mệnh vận lưu niên đây?
Thực ra câu trả lời này rất dễ, và cũng rất tự nhiên. Đó chính là cung Đại vận lưu niên (= Lưu mệnh/mện vận lưu niên). Cái lý rất đơn giản, bởi vì nó được khởi từ đại vận 10 năm tính đi. Khi cung đại vận lưu niên xuất hiện, bây giờ ta gọi là mệnh vận lưu niên cũng được. Đương nhiên, các cung lưu niên cũng sẽ xuất hiện theo đó. Có người nói rằng, xem như vậy thì dường như mỗi hạn ta đều có một lá số mới chồng lên lá số cũ. Mà muốn xem tới vận lưu niên, tức là ta đã có ba lá số chồng lên nhau. Đó là các lá số: Lá số đầu tiên là lá số tổng quát, lá số thứ hai là lá số lưu đại vận 10 năm, lá số thứ ba là lá số đại vận lưu niên. Cùng với nó có tiểu vận lưu niên và cung có thái tuế nhập. Thêm bao nhiêu sao lưu nữa thì... chúng ta sẽ tá hỏa bởi chỉ mới đoán đến vận lưu niên thôi mà đã quá ư là phức tạp. Làm sao xử lý được tới ba lá số chồng đống lên nhau. Rồi các sao sẽ được an vị thế nào?. Tại sao khi lá số lưu xoay chuyển như thế mà các sao lại "đứng ỳ ra đó", chỉ có một số sao là dịch chuyển, đó là các sao lưu mà thôi?.
Thực ra không phải như vậy. Đó là bởi vì, chúng ta đã có ý niệm sai ngay từ đầu rằng kết quả giải đoán đến vận lưu niên là đã có ba lá số chồng lên nhau. Cũng như bài toán lưu cung. Việc chứng minh hoàn toàn không đơn giản. Nhưng chúng ta có thể tạm đồng ý với nhau bởi vì những lý do sau:
- Lý, mệnh và vận phân ly. Theo ý kiến này, sự thiết lập ba lá số chồng lên nhau là tự nhiên, từ đó đương nhiên, người ta có thể xét chỉ một lá số lưu cuối cùng mà thôi. Nhưng sẽ khiên cưỡng, bởi vì từ đó phải tuyệt đối an sao lưu toàn bộ. Nhưng với những sao an theo năm thì còn có thể. Những sao an theo tháng, ngày giờ thì lấy cái gì để an đây?. Chả nhẽ lại suy từ ngũ hành của cung an mệnh vận?. Đây là điều bất khả do tính đa trị của nó, cũng như về lý rất khiên cưỡng.
- Lý, mệnh vận liên kết. Sẽ đưa tới sự lược bỏ rất lớn đối với các lá số lưu, khiến chúng ta, suy cho cùng kỳ lý – bởi sự không nắm được bản chất cấu trúc của tử vi – thì sẽ lược bỏ vô tội vạ, cuối cùng thì chẳng có một lá số lưu nào cả, hay chỉ là những cung lưu về mặt hình thức mà thôi.
Nhưng thực tế thì, cả hai lý trên đều đúng. Có điều, nghiêng hẳn bất cứ về cái lý nào, cũng đều cực đoan cả. Trong tử vi luận, khác với lý luận hay lô gíc thông thường của khoa học là khi suy luận giải các bài toán khoa học, người ta thường "làm quá" các giả thiết, hay các chứng cứ, cũng như điều kiện của bài toán để tìm ra lời giải của bài toán, thì tử vi luôn không được phép làm như vậy. Tại sao vậy. Giải thích nôm na rằng làm như vậy là vi phạm cái lý âm dương. Nhưng để hiểu được thì không đơn giản tý nào.
Quay trở lại hai lý trên, chúng ta đương nhiên phải chọn giải pháp "trung dung". Nhưng trung dung tới mức độ nào, lại còn phụ thuộc vào trình độ của tử vi gia. Ở trình độ này, người giải sẽ phải vận dụng thêm nhiều phép phối hợp khác. Một trong các phép đó, chính là bên cạnh lưu cung còn có lưu sao ( 9 sao lưu). Nên nhớ, cung tiểu hạn lưu niên và lưu thái tuế là do tự thân nó có, chứ không phải là sự phối hợp thêm do yêu cầu của bài toán lưu cung.
Theo lý đó, tử vi gia phải thiết lập một sự phối hợp sao cho việc giải đoán các biến cố sao cho biến cố được giải đoán phải có những biến cố không được phép xảy ra nhiều lần trong đời. 
Kết luận: tiểu vận lưu niên không phải là mệnh vận lưu niên, mà chỉ có đại vận lưu niên mới là mệnh vận lưu niên mà thôi.
Vậy luận cách từ mệnh vận cho thông tin của mệnh trong vận đó, vậy thì luận cách cục từ LNTH và Thái tuế thì cho ra thông tin về cái gì?.
Đây là câu hỏi tự nhiên, nhưng là câu hỏi mang tính chất rất trừu tượng, do đó mà câu trả lời cũng không thể hy vọng có tính chất rạch ròi, như hai chia hai bằng một được. Ta nên hiểu như thế này.
Phàm những gì được giải đoán từ lá số tất thảy đều thuộc về những biến cố cuộc đời của đương số. Đoán về mệnh vận dài hạn, cũng như mệnh vận ngắn hạn. Có khi đều cho ra những biến cố cụ thể, mà những biến cố đó chỉ xảy ra trong thời gian một năm, thậm chí còn thời gian ít hơn một năm, nghĩa là chỉ vài tháng thôi. Nhưng cho dù chỉ là vài tháng, chúng ta cũng chỉ thấy nó thể hiện trong đại vận 10 năm, vậy mà trong vận một năm hay nhiều năm trong đại vận đó lại chẳng thấy nó xảy ra. Nhưng rồi trong một năm nào đó, và trong năm đó, chỉ có vài tháng là xảy ra. Chúng ta nói rộng ra cho dễ hiểu, chẳng hạn có số nào đó bị tù đày, nhìn trên số tổng quát thấy rõ là số bị tù. Nhưng trong thực tế thì người có số chỉ bị tù vài năm thôi, chứ không bị tù cả đời. Và vài năm đó chỉ xảy ra trong đại vận nhất định nào đó mà thôi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Cho nên mới có câu hỏi: Số bị tù, nhưng khi nào mới bị tù?.
Đấy là nói về vận. Còn với LNTH và Lưu thái tuế thì hiểu thế nào?.
Trên tinh thần hiểu như trên khi nói tính tương đối của Vận, thì cái gọi là thông tin từ LNTH và LTT cũng là thông tin về Mệnh tại vận đó. Một sự tổng hợp thông tin có được từ cả ba cung đó, sẽ cho ta một bức tranh toàn diện hơn về các biến cố đối với mệnh trong bối cảnh toàn diện của các quan hệ mọi mặt của đời sống, hơn là khi mà ta chỉ khu trú, giới hạn trong việc xét thông tin mỗi một cung vận của mệnh. Vì thế, khi thấy một cách cục trong một cung, không nên võ đoán vội ra tiêu chí ngay, mà phải xem xét trên tổng thể, nếu thấy chúng xuất hiện với tần xuất nhiều lần thì tiêu chí, hay biến cố sẽ càng chắc chắn xảy ra. Thay vì chỉ có một lần xuất hiện ở một cung, mệnh vận lưu niên chẳng hạn, thì không nên vội kết luận. Điều này càng có ý nghĩa trong hóa giải. Chẳng hạn như mệnh vận lưu niên thấy tai nạn giao thông xảy ra, nhưng tiểu hạn lưu niên lại thấy được hóa giải và lưu thái tuế lại thấy chẳng hạn như vợ con yên bình thì có thể đoán quyết là tai nạn sẽ không xảy ra, mà chỉ hú hồn thôi, hoặc giả tai nạn có xảy ra nhưng nhẹ và được cứu thoát kỳ lạ,... Cho nên gặp những trường hợp đó rất khó nói ra, bởi khi nói ra rất dễ làm trò cười cho thiên hạ nghe giải đoán, hoặc lại bị cho là hù dọa lấy tiền, lấy danh,... mà không nói ra thì...đáng tiếc những trường hợp như thế lại gặp rất nhiều trong giải số.
------------------------------------------
Tuổi Canh thì tứ hóa sẽ là: Nhật - Vũ - Âm - Đồng, mà không phải là Nhật, Vũ, Đồng, Âm. Tuổi Nhâm là Lương - Vi - Thiên phủ - Vũ khúc. chứ không phải là Lương, Vi, Tả phù, Vũ khúc.
Tứ hóa, đơn giản chỉ là Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ Khí mà thôi. Không cần thiết phải vễ vời nào là cho rằng Lộc là hóa khí của mùa xuân, quyền là hóa khí của mùa hạ, khoa là hóa khí của mùa thu, kỵ là hóa khí của mùa đông. Để rồi từ đó tìm những tính chất của bốn mùa mà ghép cho tứ hóa. Từ đó dẫn tới nhiều tính lý của tứ hóa "lạ lẫm" mà người ta cứ thản nhiên chấp nhận.
phép thái tuế nhập quái cũng thế. Có rất nhiều khuyết tật. Thực chất, muốn dùng chuẩn phép này, phải thông tỏ phép chồng số và quay số. Nếu nhìn theo quan điểm toán học, thì phép thái tuế nhập quái chỉ là phép gần đúng thô nhất có thể có của phép chồng chập lá số mà thôi. Ví như 2,6 mà làm tròn số thành 3 vậy.