Thứ Tư, 16 tháng 8, 2017

Bài 20 - TVCT - Bác Kim Hạc

Bài 20 .


401/ Tham = a.truy tìm, dò xét ,dò hỏi,tham vấn, tra cứu, cứu xét .
b. ( Verb ) thò ra , ló ra, nhô ra .
c. Tham lam , ham , thích .
d. số 3 .
e. hành lang, hàng hiên.

402/ Tham -Toạ = băng dài để ở hành lang , hàng hiên ,ngoài trời .outdoor bench / chair .
Đà = cúi xuống , rơi xuống . lean down , drop ,
Đà = chậm , trễ , kéo dài .

403/ Đà = a. Đánh bóng , giấy nhám .
b. chở , thồ , cõng .
c. kéo , dắt, dẫn .
Mã -Đà = ngựa thồ . trâu ,bò kéo xe .
Đà -Toạ = đánh bóng bàn ghế , đồ đạt được đánh bóng .
Đà = a. màu nâu sẫm . dark wood color. b. màu đỏ .

404/ Thân cung = phòng khách , living room .
Thân : Tuyệt = 1 phòng khách nhỏ bé .
Tuyệt = út , nhỏ , nhỏ nhắn, nhỏ bé , nhỏ nhất .
Tuyệt = #1 . # 0 .
Đà -Tuyệt = vách đá , vách núi ( lởm chởm )sát bờ biển, cliff side , seaside . 
vì Đà = lởm chởm, gồ ghề ,gập ghềnh .\

405/ Điền : Triệt = nhà mướn,nhà cho mướn, nhà shared , nhà nhỏ .Ko ở nhà .
Điền : Tuần = nhà / khu nhà có cổng , hàng rào. gated housé/ community.
Mộc dục -Triệt = a shared bathroom.
Riêu /Y / Phục = a. đồ lót ,undergarments .b. quần áo .
Âm -Phục = Đồ lót đàn bà .

406/ HKỵ = phật ý , ko bằng lòng . Disturb , unpleasured .

Đào-Khôi = bó hoa , người đẹp . Hoa hậu .
Phục = Gặp lại . Trở về . Quay về .
Quan / Lưu Quan : Cơ -Phục = về làm lại hãng cũ .
Cơ = Cty, cơ quan , hãng .
Ex-Bf = a. Thái dương -HKỵ ( + Toái Hư Phá ) .
b. TTướng -Tuần .

407/ Cự -Cơ = a. ngôi nhà lớn . b. nhà của ông bà . c. Sống xa nhà .
d. bán buôn, nhà buôn bán .e. Gạch lát sàn nhà . g. đĩa hình vuông , square plates .
h. người già . Cây to, cổ thụ . tảng đá lớn . i. Đồ sứ , chinawares .
Cự = Hình vuông .
Cự -Cơ - Bhổ = a .đĩa sứ vuông màu trắng .b. ngôi nhà lót gạch trắng , hay có đá cuội trắng .
c. nhà có nuôi chó dữ .
Cự -Cơ = a. a much older heavy woman . b. 1 bà già ( bán nhà ) ưa cự nự .
c. ( Thê) bà xã hay cự nự , nhằn nhì .
Cự -Cơ = người bán hàng , người tính tiền .register.

408/ Trường sinh = dây chuỗi đeo cổ . vòng đeo tay . Vòng , kiềng .
Cơ -Âm -TSinh = 1 người đàn bà đeo sợi giây chuỗi ngọc .
Cơ-BHổ - Tsinh = đường đê ( ngoài biển ), cầu tàu, pier .

409/ Lộc tồn = a. đồ cổ , đồ kim ngân châu báu , tiền để dành .
Tiền lương .
Vũ khúc = Tiền , tiền xu ,coins . tiền mặt , credit card , tiền vàng .
Vũ khúc = đường cong ,quẹo , khúc cong , khúc cua .
Phá quân = đường hư hỏng, lở lói , gập ghềnh .

410/ Nô : Liêm -Tsát = bị theo dõi, điều tra viên.
Tử = Đồng -Thiếu âm = 1 em bé gái . cùng đi với 1 bé gái .
Đồng = cùng , cùng nhau .

411/ Cơ-Lương = cái bình .
Cơ -Lương -tam Minh = bình hoa .

412/ Di : Vũ -Phá = đường bị mưa xói, lũ lụt . Sóng biển ( Hợi cung ) .
Di : TĐồng = ra ngoài cùng đồng bạn, đi với con .
Di : TĐồng = đi đồng nội, nhà quê, đồng dã . open country .

413/ ThĐồng = a. cùng nhau, cùng chung . b. Đồng ý , tán thành . c. Giống nhau .
d. Màu đỏ , vàng đỏ .e. con ngươi, mắt .

414/ Quan : Lương -Mã = đi xa . đi mua thức ăn .
Di : Mã -Tuần -Lương = park ( the car ) at the far end of the ( parking ) lot by a tree.
Lương -Ko -Kiếp = ko có đồ ăn . vô lương tâm.

415/ Mã = Hoạt động , hành động , làm việc , năng động , bôn chải , làm lụng ko ngừng .
Mã -Ko -Kiếp = a. hoạt động bị ngưng trệ . bị mất xe . Đi lạc . đi / hành động vô tích sự .

416/ Hoả -BHổ -Cự = la lối ( tranh cãi, cãi nhau ) .
Phá q. -Việt ( Kình -Đà ) = phát nổ .
Phá -Việt -Kình / Đà -Hoả -Kiếp = phát nổ và cháy ( dễ chết người ) .

417/ Tử -Tướng -Vượng -Kình = lies , nguỵ quân tử .
Vượng = #4 .
Kình = Đâm.
Đà = chém . Kình -Đà = đâm chém .
Ách : Đà -Hình -LQuan = cổ bị chém. cổ có vết sẹo .
Kình = đứng trước , đi trước .
Đà = đứng sau, đi sau.

418/ Nô : Đào -Quyền = Bf hôn trên má .
Nô - Th Cơ = bạn lớn tuổi .
Nô : Cự-Cơ = bạn già , người tình già ( có cơ ngơi ) .

419/ Địa ko = Trái đất .
Phi -Địa - Tsinh -Tuần = bay 1 vòng quanh trái đất .

420/ Nhị hợp cung = a. (sit / stand ) next to .b. in front of , đối diện . c. Bên kia , opposite of the street .
d. far away on the opposite side . 

Lỗ đen và tương quan lượng tử - Blog's Đàm Thanh Sơn

Maldacena: Hình học và rối lượng tử

(dịch từ bài Geometría y entrelazamiento cuántico của Juan Maldacena, Investigación y Ciencia, số 11/2015)
Vào đầu thế kỷ 20 đã có hai cuộc cách mạng trong vật lý: cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng. Cơ học lượng tử cho ta biết các định luật chi phối thế giới vi mô, còn thuyết tương đối rộng, được Einstein xây dựng năm 1915, là một lý thuyết về không gian và thời gian. Theo thuyết tương đối rộng, không-thời gian có độ cong và không phải tĩnh, mà là động.
Tới nay các tiên đoán của cả hai lý thuyết đều đã được thực nghiệm xác nhận. Tuy nhiên hai lý thuyết thường được áp dụng vào những hiện tượng rất khác nhau. Ta thường dùng cơ học lượng tử để mô tả các vật rất nhỏ (như nguyên tử hay photon), và dùng thuyết tương đối rộng để nghiên cứu sự biến thiên của không-thời gian ở gần các vật nặng (ví dụ các ngôi sao hay các thiên hà). Để nghiên cứu các hệ vật lý vừa nặng vừa nhỏ, như vũ trụ ngay sau vụ nổ lớn, ta cần một cách miêu tả lượng tử cho không-thời gian. Điều này, một trăm năm sau ngày Einstein xây dựng được thuyết của mình, vẫn còn là một thách thức lớn cho vật lý cơ bản.
Hai năm trước, được một cuộc tranh luận về các tính chất của lỗ đen thúc đẩy, nhà vật lý Leonard Susskind của đại học Stanford và tác giả đã đề xuất một mối liên hệ giữa hai hiện tượng có vẻ nghịch lý trong cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng: hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) và lỗ giun (wormholes). Rối lượng tử là một dạng tương quan lượng tử có thể tồn tại giữa những hệ vật lý cách xa nhau. Lỗ giun là những đường tắt xuất hiện trong một số nghiệm của phương trình Einstein và nối những vùng rất xa nhau của không gian.
Dưới đây chúng ta sẽ thấy hai hiện tượng này có liên quan với nhau. Sự tương đương này tạm thời chỉ có có thể chứng minh chặt chẽ trong một vài trường hơp cụ thể, nhưng có lẽ đúng trong trường hợp tổng quát. Ý tưởng của chúng tôi về mối liên hệ giữa hình học và rối lượng tử có thể là một nguyên tắc mà tất cả lý thuyết lượng tử của không-thời gian, hay hấp dẫn lượng tử, phải tuân theo. Nguyên tắc này có những hệ quả quan trọng. Thậm chí, một cách nào đó, có thể chính không-thời gian cũng xuất hiện ra từ sự rối lượng tử của những thành phần vi mô cơ bản nhất của thế giới.
Một điều thú vị là cả hai khái niệm, rối lượng tử và lỗ giun, đều xuất phái từ hai bài báo mà bản thân Einstein viết vào năm 1935. Hai công trình dường như liên quan đến hai hiện tượng rất khác nhau, và sau này Einstein cũng không bao giờ nghĩ là chúng có thể có liên hệ gì với nhau. Thực sự mà nói, rối lượng tử là một hiện tượng làm cho Einstein hết sức bức bối. Dưới đây chúng ta sẽ  xem lại hai bài báo và giải thích mối liên hệ giữa chúng từ quan điểm hiện đại.
Lỗ đen và lỗ giun
Một tiên đoán đáng kinh ngạc của lý thuyết Einstein là lỗ đen. Lỗ đen được hình thành khi ta gom một khối lượng vật chất lớn vào một vùng không gian nhỏ. Vật chất này không cần là gì đặc biệt, ví dụ, ngay từ không khí ta cũng có thể tạo ra một lỗ đen. Chỉ có điều là cần rất nhiều không khí: ta cần phải làm đầy một hình cầu có kích thước bằng kích thước của hệ mặt trời. Nếu làm được như vậy thì khối khí này sẽ suy sụp dưới sức nặng của chính nó và nén lại cho tới khi trở thành lỗ đen.
Tất cả các lỗ đen đều được bao bọc bởi một mặt cầu giả tưởng gọi là chân trời sự kiện. Ta gọi mặt cầu này là giả tưởng vì một nhà du hành vũ trụ rơi tự do vào lỗ đen sẽ không thấy gì ở chỗ này. Tuy nhiên, một khi vượt qua mặt cầu này, người đó sẽ không quay trở lại được. Người đó sẽ đi vào một vùng mà không gian suy sụp vào một “kỳ dị”, chỗ mà hình học co lại hoàn toàn. Tới gần điểm kỳ dị nhà du hành vũ trụ sẽ chết bẹp dưới lực hấp dẫn.
Bên ngoài vùng chứa vật chất, lỗ đen được mô tả bằng một nghiệm của phương trình Einstein mà nhà vật lý Karl Schwarzschild tìm ra năm 1916. Mục tiêu ban đầu của Schwarzchild là tìm trường hấp dẫn của một chất điểm. Trên thực tế, nghiệm của ông ta không có vật chất: nó mô tả một trường hấp dẫn thuần tuý với đối xứng cầu, không hơn không kém. Tuy trông có vẻ đơn giản, các tính chất của không-thời gian này khá khó diễn giải. Chỉ đến những năm 196o người ta mới hiểu được tàm tạm cấu trúc toàn cục của nghiệm này.
Năm 1935, trong một trong hai bài báo đã nói đến ở trên, Einstein và Nathan Rosen, một cộng tác viên của Einstein ở Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, đã tìm ra một khía cạnh rất thú vị của nghiệm Schwarzschild. Họ tìm ra rằng nghiệm này chứa hai không gian độc lập nối với nhà bằng một cái “ống”. Tại một thời điểm nhất định, ta có thể hìng dung ra hình học của nghiệm như sau: ở xa vùng trung tâm, không gian là phẳng (không có độ cong đáng kể), nhưng khi vào gần trung tâm, hình học bị méo đi và nối vào một không gian thứ hai, một không gian cũng tiệm cận phẳng.
Sự kết nối hình học mà Einstein và Rosen tìm ra nay được gọi là “cầu Einstein-Rosen” (ER), hay còn gọi là lỗ giun. Einstein và Rosen phân tích cấu trúc hình học của một siêu diện tại một thời điểm cố định (nói cách khác, một không gian cong ba chiều) nhiều năm trước khi người ta hiểu được cấu trúc toàn cục của nghiệm Schwarzschild. Mục tiêu của Einstein và Rosen là tìm một miêu tả hình học cho một hạt cơ bản sao cho không có kỳ dị. Ngày nay chúng ta biết rằng diễn giải của họ là sai lầm.
Chiếc cầu do ER xây dựng nối hai không gian độc lập. Tuy nhiên, ta có thể có những nghiệm giống như vậy, nhưng nối hai vùng cùng thuộc về một không gian. Chỉ cần thay đổi một chút, nghiệm Schwarzchild có thể được diễn giải như là một nghiệm chứa hai lỗ đen ở rất xa nhau nhưng lại nối với nhau ở phía bên trong. Ta tưởng tượng là có một lỗ đen ở tại nơi ta đang sống và một lỗ đen ở một ngân hà khác. Một người quan sát mà ta sẽ gọi là Romeo đứng cách chân trời sự kiện của lỗ đen thứ nhất 1 mét, trong lúc Juliet đứng cách chân trời sự kiện của lỗ đen thứ hai cũng 1 mét. Nếu ruột của hai lỗ đen được nối với nhau bằng một chiếc cầu ER, khoảng cách giữa Romeo và Juliet qua lỗ giun sẽ là 2 mét, bất kể hai vùng không gian xung quanh hai lỗ đen xa nhau đến mức nào.
Những kiểu hình học này có vẻ có vấn đề. Ta nhớ lại là một trong những nguyên lý cơ bản của thuyết tương đối hẹp là ta không thể gửi tín hiệu đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Thế nhưng có vẻ là lỗ giun cho phép vi phạm nguyên lý này vì ta có thể gửi tín nhiệu qua nó. Tuy nhiên, năm 1963, Robert W. Fuller ở đại học Columbia và John A. Wheeler ở đại học Princeton đã chứng minh rằng không thể dùng cầu ER để gửi bất kỳ loại tín hiệu nào. Để thấy điều này ta phải xem xét tính chất động của hình học trong đó thời gian đóng một vai trò quan trọng. Lỗ giun của chúng ta mô tả hình học của không gian tại một thời điểm cố định. Nhưng hình học này tiến hoá theo thời gian. Fuller và Wheeler chứng minh được rằng chiếc cầu ER giãn ra – độ dài của cầu trở thành vô cùng – trước khi người quan sát kịp vượt nó. Điều này có thể sẽ làm các nhân vật trong các phim khoa học viễn tưởng thất vọng, vì họ vẫn hay dùng lỗ giun để du hành trong vũ trụ với tốc độ nhanh hơn ánh sáng.
Trong trường hợp hai lỗ đen nối với nhau ở bên trong bằng một lỗ giun, chân trời của hai lỗ đen chạm vào nhau tại một khoảnh khắc, nhưng sau đó rời nhau ra quá nhanh để cho ai đó có thể kịp vượt cầu sang bên kia. Như thế nếu Romeo muốn gửi một thông điệp nhanh hơn tốc độ ánh sáng cho Juliet, anh ta sẽ không thể làm được. Romeo có thể phóng một tên lửa mang thông điệp vào lỗ đen bên anh ta và tên lửa sẽ rơi vào bên trong lỗ đen. Tuy nhiên, khi đã ở bên trong, hai chân trời chạy khỏi nhau với tốc độ rất nhanh, và không gian suy sụp trước khi thông điệp có thể tới chân trời của Juliet.
Tuy nhiên, Romeo và Juliet vẫn có cơ hội gặp nhau. Họ có thể nhảy, người nào vào những lỗ đen của người nấy, và gặp nhau ở bên trong lỗ đen. Tuy nhiên có một vấn đề: một khi đã vào trong, họ không thể ra ngoài nữa. Đây là một kiểu “sự cuốn hút chết người”. Cái lạ của hình học này là nó mô tả hai lỗ đen có cùng chung một ruột. Chính vì thế mà Romeo và Juliet có thể gặp nhau ở trong lỗ đen.
Ta phải nhấn mạnh là những lỗ giun của chúng ta rất khác những lỗ giun thường gặp trong các phim khoa học viễn tưởng. Những lỗ giun trong phim (những lỗ giun ta có thể đi qua được) đòi hỏi một loại vật chất có năng lượng âm, có lẽ không tương thích với các định luật vật lý ta biết. Vì vậy nhiều nhà vật lý tin rằng loại lỗ giun trong các phim khoa học viễn tưởng không thể tồn tại trong tự nhiên.
Các lỗ đen ta xét ở đây còn có một khía cạnh khác đáng nhắc đến. Các lỗ đen được tạo ra do vật chất suy sụp chỉ tương ứng với một phần của hình học Schwarzchild, bởi vì sự có mặt của vật chất làm nghiệm thay đổi. Các lỗ đen loại này đã được nghiên cứu rất rõ; trong trường hợp này không có lỗ giun nào hết. Loại lỗ đen được tạo ra qua các quá trình vật lý thiên văn, ví dụ như khi một ngôi sao suy sụp, là loại không có lỗ giun nối với một vùng khác của không gian hay nối chúng với nhau, khác với nghiệm đầy đủ của Schwarzschild. Tuy vậy chúng ta vẫn muốn hiểu rõ hơn diễn giải vật lý của không-thời gian Schwarzschild. Dù sao, đây cũng là một trong những nghiệm đơn giản nhất của phương trình Einstein.
Tương quan lượng tử
Đáng ngạc nhiên là sự giải thích cho nghiệm Schwarzschild lại liên quan đến bài báo thứ hai của Einstein ta đã nhắc tới ở trên. Công trình này ngày nay rất nổi tiếng và có ảnh hưởng. Bài này được viết cùng năm, với đồng tác giả là Rosen và Boris Podolsky, cũng là nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Cao cấp. Các tác giả (ngày nay được biết đến bởi tên viết tắt EPR) chỉ ra là cơ học lượng tử cho phép một loại tương quan (correlation) rất lạ giữa các hệ vật lý xa nhau, một mối tương quan mà sau này được gọi là “rối lượng tử”.
Sự tương quan giữa các vật xa nhau có thể xảy ra ngay trong vật lý cổ điển. Giả sử bạn đi ra khỏi nhà mà chỉ mang theo một chiếc găng tay vì bạn quên chiếc kia ở nhà. Trước khi nhìn vào túi, bạn không biết mình mang chiếc nào theo người. Tuy nhiên, một khi bạn nhìn vào túi và thấy mình mang chiếc găng tay phải, bạn biết ngay chiếc găng ở nhà là tay trái.
Tuy nhiên, rối lượng tử liên quan đến tương quan giũa các đại lượng lượng tử, những đại lượng có thể phải tuân thủ nguyên lý bất định của Heisenberg. Nguyên lý này nói rằng có những cặp biến số mà ta không thể biết hoàn toàn chính xác cùng một lúc. Thí dụ nổi tiếng nhất là vị trí và vận tốc của một hạt: nếu ta đo chính xác vị trí thì vận tốc trở thành không xác định và ngược lại. Trong bài báo của mình, EPR hỏi cái gì sẽ xảy ra nếu ta có hai hệ ở xa nhau và trong mỗi hệ ta quyết định đo một cặp biến chịu nguyên lý bất định.
Trong ví dụ mà EPR phân tích, ta xét hai hạt có cùng khối lượng và chỉ chuyển động trong một chiều. Ta gọi hai hạt đó là R và J và ta chuẩn bị hai hạt đó sao cho trọng tâm của chúng có toạ độ xác định, tức là x_{cm}=x_R+x_J=0. Ngoài ra ta có thể làm cho vận tốc tương đối giữa hai hạt, v_{rel}=v_R-v_J, có một giá trị chính xác, ví dụ v_{rel}=v_0. Trước khi tiếp tục, ta phải làm rõ một điều. Ta vừa đặt giá trị chính xác cho cả vị trí và vận tốc. Điều này có vi phạm nguyên lý bất định của Heisenberg không? Ta nhớ lại là nguyên lý bất định nói đến vị trí của một hệ và vật tốc liên quan đến vị trí đó. Tuy nhiên, nếu có hai hệ, không gì cấm ta biết vị trí của hệ thứ nhất và vận tốc của hệ thứ hai. Trong trường hợp đang xét, chúng ta không xác định vị trí và vận tốc của trọng tâm, mà là vị trí của trọng tâm và vận tốc tương đối của hai hạt. Do đây là hai đại lượng độc lập, không có vấn đề gì khi ta xét trạng thái ban đầu như EPR muốn.
Bây giờ ta gặp một điều rất bất ngờ. Giả sử hai hạt của chúng ta đã đi ra khỏi nhau rất xa và hai người quan sát xa nhau, Romeo và Juliet, quyết định đo vị trí của chúng. Do cách những hạt này được chuẩn bị, nếu Juliet nhận được giá trị x_J thì Romeo sẽ tìm được hạt của mình ở vị trí x_R=-x_J. Mặt khác, nếu họ đo vận tốc và Juliet nhận được kết quả v_J thì Romeo chắc chắn sẽ tìm được giá trị v_R=v_0+v_J. Tất nhiên Romeo và Juliet muốn chọn đo đại lượng nào cũng được. Nhưng nếu Juliet đo vị trí và Romeo đo vận tốc, kết quả của họ sẽ hoàn toàn ngẫu nhiên và không có tương quan gì hết.
Cái lạ là nếu Juliet quyết định đo vị trí của hạt của mình thì hạt của Romeo sẽ có một vị trí hoàn toàn xác định một khi ta biết kết quả đo của Juliet. Cũng vậy nếu hai người đo vận tốc. Ta có thể tưởng tượng là khi Juliet đo vị trí, hạt của Romeo “biết” ngay lập tức là phải chiếm một vị trí xác định. Mới nhìn thì điều này có vẻ là một cách gửi thông tin tức thì: lặp đi lặp lại thí nghiệm nhiều lần, Juliet có thể gửi cho Romeo một thông điệp gồm số 0 và 1 bằng cách chọn đo vị trí hay tốc độ của hạt. Tuy vậy, Romeo không thể đọc được thông điệp nếu không biết kết quả đo của Juliet. Do đó ta không thể dùng tương quan do rối lượng tử để gửi tín hiệu nhanh hơn ánh sáng.
Rối lượng tử có thể là một tính chất bí mật nhất của các hệ lượng tử, tuy nhiên qua nhiều năm tháng đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Trong hai mưoi năm trở lại đây, các tương quan lượng tử đã đưa đến những ứng dụng thực tế và những tiến bộ lớn trong các ngành như mật mã và thông tin lượng tử.
ER=EPR
Ta quay lại các lỗ đen. Năm 1974 Stephen Hawking chứng minh rằng các hiệu ứng lượng tử làm cho các lỗ đen phát ra bức xạ giống như một vật nóng. Điều này chứng tỏ các lỗ đen có nhiệt độ. Nhiệt độ này càng cao nếu vật càng nhỏ. Thật sự ra một lỗ đen có thể trắng. Cụ thể, một lỗ đen với kích thước bằng một vi khuẩn, với bức xạ có bước sóng giống như bước sóng của ánh sáng nhìn thấy, sẽ có màu trắng do bức xạ Hawking. Lỗ đen này không phát ra nhiều ánh sáng, nhưng đến gần nó ta sẽ thấy một điểm sáng chói. Nhưng một lỗ đen kích thước này có một khối lượng khổng lồ, do đó ta không thể sử dụng nó như một nguồn năng lượng.
Đối với những lỗ đen được tạo ra một cách tự nhiên từ sự suy sụp của một ngôi sao, bức xạ Hawking yếu đến mức trên thực tế không thể quan sát được. Những vật thể này quá to và quá lạnh để có thể cảm nhận được hiệu ứng này. Tuy nhiên, việc các lỗ đen có nhiệt độ có những hệ quả quan trọng.
Chúng ta biết từ thế kỷ 19 là nhiệt độ có được là do chuyển động của các phần tử vi mô trong hệ. Ví dụ, trong chất khí, nhiệt độ nảy sinh do chuyển động của các phân tử khí. Vì thế, ta có thể chờ đợi là một lỗ đen cũng chứa những thành phần vi mô có khả năng tạo ra vô số các cấu hình, hay là các “trạng thái vi mô”. Chúng ta cũng tin rằng, ít nhất nhìn từ bên ngoài, các lỗ đen cũng phải hành xử như những hệ lượng tử bình thường, chịu tất cả các định luật cơ học và nhiệt động học.
Xem xét từ bên trong, không có gì cấm ta xét các trạng thái rối lượng tử của các lỗ đen. Ta tưởng tượng hai lỗ đen cách xa nhau, mỗi lỗ đen có một số lớn các trạng thái vi mô. Ta có thể nghĩ ra một cấu hình trong đó mỗi trạng thái vi mô của lỗ đen thứ nhất có tương quan với trạng thái vi mô tương ứng của lỗ đen thứ hai. Cụ thể là nếu ta quan sát được lỗ đen thứ nhất ở một trạng thái vi mô nhất định, thì lỗ đen thứ hai cũng ở đúng trạng thái này.
Điều hay là, xuất phát từ một số xem xét nhất định liên quan đến lý thuyết dây và lý thuyết trường lượng tử, ta có thể chứng minh rằng hai lỗ đen với các trạng thái vi mô rối với nhau như mô tả ở trên – tức là ở trạng thái EPR – sẽ cho ta một không thời gian trong đó có một chiếc cầu ER nối hai lỗ đen với nhau. Nói cách khác là rối lượng tử gây ra một liên kết hình học giữa hai lỗ đen.
Chúng tôi gọi cái này là sư tương đương giữa ER và EPR, hay ER=EPR, vì nó liên hệ hai bài báo của Einstein và cộng sự viết năm 1935. Từ quan điểm của EPR, các quan sát gần chân trời của hai lỗ đen có tương quan với nhau vì rối lượng tử. Từ quan điểm của ER, các đo đạc có tương quan với nhau do khoảng cách giữa hai hệ qua lỗ giun là rất nhỏ. Để xác lập sự tương đương, điều quan trọng là ta không thể gửi thông tin qua lỗ giun, cũng như ta không thể dùng rối lượng tử để gửi thông tin.
Ta có thể tưởng tượng một tương lai xa khi hai gia đình thù địch muốn giữ Romeo và Juliet ở xa nhau. Họ gửi Romeo đến Tinh Vân Tiên Nữ và giữ Juliet ở dải Ngân Hà. Tuy nhiên họ cho phép hai người trao đổi thông điệp và các cặp hệ lượng tử rối với nhau. Việc này sẽ đòi hỏi rất nhiều thời gian, nhưng chúng ta đang ở một tương lai mà tuổi thọ cao hơn hiện nay rất nhiều. Nếu kiên nhẫn, Romeo và Juliet có thể làm ra hai lỗ đen rối với nhau. Những lỗ đen này nhìn từ ngoài thì hoàn toàn bình thường, do đó hai gia đình sẽ không nghi ngờ gì. Tuy nhiên, sau khi làm ra hai lỗ đen, Romeo và Juliet có thể nhảy và bên trong và gặp nhau lần cuối trước khi cùng chết ở điểm kỳ dị.
Một nguyên lý phổ quát?
Những ý tưởng dẫn ta tới đây được nhiều nhà nghiên cứu phát triển qua nhiều năm, bắt đầu từ một nghiên cứu năm 1976 của Werner Israel ở đại học Alberta. Công trình của tôi và Susskind được thúc đẩy bởi một nghịch lý do Ahmed Almheiri, Donald Marolf, Joseph Polchinski và James Sully, tất cả lúc đó đều ở đại học California ở Santa Barbara, phát biểu năm 2012. Ngược lại với những gì mọi người nghĩ trước đó, những nhà nghiên cứu này đưa ra ý kiến rằng hiện tượng rối lượng tử buộc ta phải thay thế chân trời sự kiện của một lỗ đen (một mặt cầu rất êm, theo lý thuyết của Einstein), bằng một rào chắn năng lượng cao không thể vượt qua. Từ quan điểm của mối liên hệ ER=EPR ta có thể giải quyết được nghịch lý này.
Sự tương đương ER=EPR gợi ý là bất cứ khi nào có rối lượng tử, liên kết hình học cũng xuất hiện. Điều này phải đúng kể cả trong trường hợp đơn giản nhất khi có hai hạt rối với nhau. Tuy nhiên trong trường hợp này mối liên kết hình học phải có cấu trúc rất nhỏ và rất lượng tử, rất không giống khái niệm hình học bình thường của chúng ta. Dù ta còn chưa biết mô tả những hình học vi mô đó như thế nào, ý tưởng của chúng tôi là mối liên hệ ER=EPR cho ta một nguyên lý mà tất cả các lý thuyết hấp dẫn lượng tử phải tuân theo. Lý thuyết lượng tử hấp dẫn được nghiên cứu nhiều nhất là lý thuyết dây. Trong lý thuyết dây, mối liên hệ ER=EPR có thể được chứng minh một cách chặt chẽ trong một số trường hợp mà sự rối lượng tử có một dạng nhất định, tuy nhiên hiện nay chưa có sự đồng thuận là mối liên hệ này được thoả mãn trong tất cả các trường hợp.
Chúng ta đã thấy là sự rối lượng tử có thể thật sự kéo hai hệ xa nhau lại gần nhau. Ta cũng biết là hai vùng gần nhau của không gian có rối với nhau. Suy diễn ra một cách tự nhiên, ta có thể nghĩ là không-thời gian, một cấu trúc liên tục, có thể bắt nguồn từ sự rối, một tính chất hết sức lượng tử. Ý tưởng này đang là tiêu điểm của nhiều nhà nghiên cứu, nhưng còn chưa được tổng hợp lại thành một phát biểu chính xác.
Link bài: https://damtson.wordpress.com/2015/11/29/geometria-y-entrelazamiento-cuantico/

Triết học vật lý phật giáo - bài viết trên blog 5xu

Triết Vật Phật tức là triết học vật lý phật giáo.
Lý do là số mới nhất của World Literature Today có giới thịêu 2 gương mặt tác giả nữ người Việt tên là Linda Lê với Lê Phạm Lê. Chả hiểu hai bà này thế nào nên mới lọ mọ google, lăng quăng một lúc đang từ nữ văn nhân việt kiều lại vớ được mấy website toàn triết với phật. Mới ngồi dùng google để làm một cái desk research về các sách dịch liên quan đến triết học. Kết quả bất ngờ lắm. Bất ngờ ở chỗ là hóa ra chả có bất ngờ gì về sách triết được dịch ở VN.
Đại khái là sách dịch phần nhiều là trước năm 75. Trong Nam dịch rất nhiều và đa dạng. Ngoài Bắc cũng nhiều nhưng đơn dạng.
Sau đó thấy ít hẳn. Gần đây lại thấy xuất hiện thêm nhiều cuốn mới được dịch.
Tuy nhiên, điều kỳ lạ là, toàn dịch những cái cổ lỗ sỹ và tung hô là nền tảng với căn bản này nọ.
Trong khi đó, rất nhiều sách triết hiện đại, rất dễ đọc, dễ tiếp cận, có thiên hướng xã hội học nhiều hơn, lại không được dịch. Nhất là những cuốn sách do những triết gia có xuất thân là dân vật lý hoặc dân toán viết bằng tiếng Anh.
Kể từ khi Thuyết Tương Đối của Einstein ra đời (1905 và 1915 ) và đặc biệt là sau khi Cơ học lượng tử của Bohr, Heisenberg, Schordinger ra đời (1925) thì thế giới quan về tự nhiên và vũ trụ bị thay đổi dã man. Dẫn đến các vấn đề cơ bản nhất của triết học cũng bị thay đổi mãnh liệt. Nói nôm na là cái món Ontology (bản thể học) và Metaphysic (Siêu thể, siêu hình) là hai món đặt câu hỏi nhiều nhất về sự tồn tại của vật chất, của vũ trụ và của tinh thần cũng bị thay đổi mãnh liệt. Nhưng mà chả thấy cuốn sách quái nào được dịch.
Thuyết tương đối Einstein ra đời cho người ta thấy một thế giới tự nhiên khác hẳn ngày xưa, khi mà Thời Gian đã tham gia vào hệ quy chiếu Không Gian. Nó cũng cho thấy một điểm rất quan trọng nữa là vật chất tự nó tác động đến không gian xung quanh nó. Nó cũng cho thấy sự chuyển động làm thay đổi sự quan sát về cả không gian lẫn thời gian. Nó cho thấy sự biến đổi phi tuyến của vật chất trong vũ trụ. Nó cho thấy chính vũ trụ cũng biến đổi không ngừng nghỉ. Tóm lại là một vũ trụ quan hoàn toàn mới lạ và thú vị.
Cơ học lượng tử lại cho thấy tự nhiên vận hành không Tất Định mà là Bất Định, cái gì cũng có xác suất cả. Nó cũng cho thấy có cái gọi là nguyên lý bất định (Heisenberg) của tự nhiên. Ở đó trí tuê con người chỉ có thể xác định cái này (hoặc vận tốc hoặc vị trí) của vật chất còn thì sẽ phải mù tịt cái kia. Nôm na là tự nhiên ở quá xa tầm trí tuệ của con người. Rồi sau đó là lý thuyết của John Bell (bất đẳng thức Bell) ra đời năm 1964 và được kiểm chứng năm 1972 bằng thực nghiệm đã cho thấy tính chất phi cục bộ (non-locality) của tự nhiên. Tính phi cục bộ là một cái vượt quá khả năng trí tuệ của con người khi nó cho thấy vật chất ảnh hưởng với nhau tức thời bất chấp khoảng cách mà có vẻ như không cần signaling cho nhau qué gì cả. Riêng quả này thì thật là siêu nhiên, chả ai hiểu được tại sao.
Mặc dù Einstein vẫn cay cú cho rằng ông rất bực mình khi mấy cái chuyện xác suất và phi cục bộ lại tồn tại trong tư nhiên. Ông rất ấm ức phát biểu là không tin rằng God play dice trong vũ trụ. Nhưng ông vẫn cho rằng God, nếu có 1 vị God như vậy, chính là sự luân chuyển của vũ trụ. Và ông cũng cho rằng Phật Giáo cũng rất gần với lý thuyết vật lý hiện đại. Có lẽ là nhờ tính Vô Thường (giống Bất Định), Duyên Khởi (cái nọ tác động đến cái kia) và có thể cả Tính Không nữa.
Do vật lý hiện đại của thế kỷ trước có quá nhiều cái mới lạ cho nên những câu hỏi cơ bản của onthology, đặc biệt là câu hỏi liên quan đến vật chất – tinh thần, trở nên sáng tỏ hơn nhiều. Nhiều vấn đề triết học và tôn giáo trước đó đã phát triển rất cao tự nhiên thành sai toét, nhiều cái giản dị hơn kiểu như Phiếm thần của Spinoza và Lão Tử tự nhiên trở nên có lý (híhí, thật là quái dị). Đáng tiếc là các tác phẩm triết học với cơ sở lý luận là vật lý hiện đại của các tác giả hiện đại lại không được khai thác ở Việt Nam.
Dưới đây là một vài tác giả và tác phẩm có thể tự tìm đọc trên internet. Các tác phẩm này đều là tiếng Anh giản dị nên đọc cũng dễ hiểu (đoán vậy vì chủ yếu là search ra các trích đọan dài).
1. Alfred North Whitehead (1861 – 1947).
Ông này là nhà toán học thuộc loại xuất sắc của Anh. Ông cũng rất giỏi về vật lý lý thuyết. Chính ông cũng có thuyết tương đối của ông để đối chọi với Einstein (nhưng thất bại). Ông quan tâm nhiều đến triết học cổ điển và siêu hình học. Khi thế giới vật lý cổ điển Newton sụp đổ thì ông có nhiều suy nghĩ sâu sắc về triết học. Đến năm 63 tuổi thì đại học Havard mời ông qua dạy Triết học.
Cuốn sách Process and Reality (1929) của ông coi như là xuất phát điểm của trường phái triết học chuyển biến (process philosophy hoặc onthology of becoming) kiểu Whitehead. (Process ở đây dịch là chuyển biến vì nó sử dụng process (như là một quá trình changing liên tục có động lực nội tại) để hình thành và tạo nên quan sát và cảm nhận và cuối cùng dẫn đến tâm thức (thought): từ nhận thức đơn giản đến trạng thái tinh cần cao cấp. Trong vũ trụ của Whitehead quả thực có God, ông God này vận hành thế giới bằng cách tung ra các khả năng và cơ hội mà thế giới khách quan có thể nhận hoặc từ chối.
Các ý tưởng trong Proces philosophy của Whitehead đã làm thay đổi khá nhiều bản thể học (onthology). Từ đây có nhiều trường phái hẹp hơn với các ứng dụng phần nhiều liên quan đến Y, Tâm Lý, Thần Kinh, Toán.
2. David Joseph Bohm (1917-1992).
Ông này là nhà vật lý lượng tử người Mỹ gốc Do Thái – Hung. Ông tham gia dự án Manhattan là cái dự án làm bom nguyên tử đầu tiên của Mỹ. Ông này có nhiều bạn bè là cộng sản nên bị cấm đoán rất nhiều, sau phải dạt vòm qua Brazil mặc dù ông được chính Eistein đề nghị giữ lại Princeton làm trợ lý riêng. Trước đó Bohm đã làm ở Princeton và thân cận với Einstein rồi, nhưng sau bị chính quyền chống cộng McCarthy nó đuổi rát quá, trường không ký hợp đồng nữa. Ngay cả trong dự án Manhattan ông cũng không được tham gia đầy đủ vì bị ngăn chặn. Sau này người ta mới công bố đóng góp lý thuyết của ông vào phần làm giàu uranium cho một trong hai quả bom ném xuống Nhật.
Bohm là người đưa ra rất nhiều công trình lớn trong vật lý lượng tử. Trong đó có lý thuyết tất định biến ẩn phi cục bộ (hay còn gọi là Giải thích Bohm). Lý thuyết này và nghịch lý EPR (Einstein Podolsky Rosen) là tiền đề để John Bell đưa ra bất đẳng thức Bell nổi tiếng, gần như hoàn thiện nốt cơ học lượng tử.
Bohm chơi thân với triết gia phật giáo Krishnamurti và nhiều gần gặp Dalai Latma. Kể từ khi gặp Krishnamurti, Bohm viết và giảng nhiều về cuộc sống, triết học và các vấn để xã hội. Các ý tưởng từ các cuốn sách của ông người ta đã đi xa hơn trong nhiều ngành khoa học con người, đặc biệt là thần kinh học. Nhiều nhà khoa học và triết học đã sử dụng các ý tưởng của Whitehead và Bohm để giải thích một trong những câu hỏi quan trọng nhất của triết học về quan hệ giữa vật chất và tinh thần. Cũng giống như Einstein, Bohm có nhiều ý tưởng liên kết với Phật Giáo. Nhiều ý tưởng trong cuốn Wholeness and the Implicate Order của ông được sử dụng trong tập thiền. Cuốn sách này hình như có vũ trụ quan giống với vũ trụ quan của Phật Giáo
Ông có mấy cuốn sách sau, có cả viết chung với Krishnamurti: “Wholeness and the Implicate Order” (1980) và “Science, Order and Creativity” (1987).
Link gốc: https://5xublog.org/2008/06/02/triet-vat-phat/

Thứ Tư, 9 tháng 8, 2017

Ý nghĩa các cung - cao tầng tử vi - Bác Kim Hạc

1/ Ví như Dần - Mão là cung vị của rừng cây hay núi rừng hay khu vực gần nương rẫy trên núi .
Tỵ -Ngọ là cung của Núi đồi , cao nguyên . núi đất , núi đá , vực thẳm ,thung lũng.
Tỵ là nơi có nhiều gió , lạnh , là bờ vực ( cliffs ) và Ngọ là miền đất khô và nóng.

Thìn là lưu vực bình nguyên , thung lũng gần rừng ( Mão ) và núi ( Tỵ ) ,cây thưa và lớn.
Mùi là khu thảo nguyên hay bình nguyên nằm dưới chân núi ( Ngọ ) và có thể là những khu làng mạc, ngoại ô tiếp giáp với thành phố .
Thân -Dậu là khu vực thành thị , cư dân đông đúc . Hoặc nửa ngoại ô nửa thành thị .

Mão / Dậu là địa phận thuộc về tôn giáo , ở đây dễ tìm thấy các cơ sở tôn giáo ,
Tại Mão là các chùa ,điền thờ ở các nơi hoang vắng hay trong rừng ,trên núi .
Tại Dậu thường là các cơ sở tín ngưỡng trong thành phố , cũng có khi chỉ cho bàn thờ tại gia .

Tuất cung là khu bình nguyên ở hạ lưu , đất thấp ( Địa võng ),có thể tiếp giáp với sông , biển .
Hợi -Tý là khu ven biển , sông hồ lớn . Hợi cũng chỉ về các đảo to, nhỏ được biển bao quanh .
Tý là miền đất có nhiều mưa hoặc tiếp giáp vơi sông hồ, biển .
Sửu là vùng đất nông nghiệp, trồng lúa ,hoa màu, chăn nuôi . Là khu vực làng mạc, thôn quê hoặc là các thị trấn nhỏ .

Đây chỉ là những khái niệm căn bản và tương đối .
Nó còn tuỳ thuộc vào phạm vi hoạt động của đương sự hoặc tuỳ theo địa hình, khí hậu .. của mỗi quốc gia ..vv ,
như 1 người chài lưới suốt đời ở biển thì các cung về núi đồi rất ít thể hiện , 1 người sống ở
Bắc bán cầu thì Ngọ cung có thể chỉ khô mà ko nóng . Tỵ , Ngọ cung có thể có gió lạnh và phủ tuyết .


2/ 12 cung sẽ tạo ra vành Hoàng đạo ( Zodiac circle , ecliptic circle ) , Hoàng đạo là đường chuyển động biểu kiến ( ko phải là 1 thực thể ) của Mặt Trời chung quanh địa cầu
và vòng / vành Hoàng đạo này đi qua 12 chòm sao trên bầu trời, tạo thành 12 Cung .

Khi ứng dụng vào thực tế tiên đoán sự vật thì vòng HĐ sẽ ko có giới hạn , vòng này có khi rất to hoặc thu nhỏ lại bất kỳ tuỳ trường hợp .
Các Cung vị vì thế có khi sát bên nhau , có khi cách nhau hàng vạn dặm .

Ví dụ như : - khi nói : Thành phố / thị trấn ven rừng , tức cung Thân khá gần cung Dần, hoặc giả là cung Sửu giáp cung Dần .

- Khi nói đương sự đúng trên bờ vách núi và phóng mình xuống biển , tức là vòng Zodiac trong trường hợp này bị thu nhỏ lại làm cho Tỵ cung tiếp giáp với Hợi cung ,
vì Tỵ = vách núi , bờ vực . Hợi = biển, bãi biển , vùng biển sát bên bờ vực .

Khi nói : Tôi đúng trên thuyền và đưa mắt nhìn các vách núi xa xăm , thì cũng là Tỵ-Hợi .

- Tỵ đối với Thân có thể là bên kia đường , cũng có khi cách nhau vài trăm dặm hay hơn nữa .

-Khi thấy Con mèo nằm dưới sofa , Sofa ( Bát toạ ) toạ Dậu nhưng Bạch hổ có thể toạ Mão.

Trường hợp này cũng tựa như Mão cung chiếu Dậu , khi này có thể luận là Bhổ - Bát toạ đồng cung

- ST (Bác Kimhac)

Thứ Ba, 8 tháng 8, 2017

Nguyên lý an khôi việt

KHẨU QUYẾT AN THIÊN KHÔI - THIÊN VIỆT

Giáp Mậu Canh ngưu dương
Ất Kỷ thử hầu hương
Bính Đinh chư kê vị
Nhâm Quý thố xà tàng
Lục Tân phùng mã hổ
Khôi Việt quý nhân phương

Trong mỗi câu khẩu quyết, con vật thứ nhất là cung độ để an sao Thiên Khôi, con vật thứ hai là cung độ để an sao Thiên Việt.

Thiên khôi - Thiên việt là quý nhân, tính chất cơ bản là: chủ về được dìu dắt, hoặc vì sự biến hóa của hoàn cảnh, tình thế mà gặp cơ hội tốt.

- Ở cung Mệnh: chủ về cuộc đời có gặp nhiều cơ hội. Càng mừng nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

- Ở cung Tài bạch: chủ về có cơ hội kiếm tiền, hoặc được quý nhân đề bạt mà kiếm tiền. Càng mừng nếu gặp Hóa Lộc, Lộc tòn.

- Ở cung Sự nghiệp: chủ về sự nghiệp gặp nhiều cơ hội hoặc trong sự nghiệp được đề bạt.

- Ở cung Thiên di: chủ về ra ngoài gặp quý nhân.

- Ở cung Phu thê: chủ về nam được vợ quý, nữ được chồng sang. Nếu chỉ thấy một trong hai sao Thiên khôi hoặc Thiên việt là có thể chủ về ngoại tình hoặc song hôn, hoặc có người thứ ba xen vào.

- Ở cung Huynh đệ: chủ về anh em đề huề, được anh em giúp dỡ. Nếu chỉ thấy một trong hai sao Thiên khôi hoặc Thiên việt, là có thể chủ về có anh em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha.

- Ở cung Giao hữu: chủ về được thuộc hạ trợ lực, hoặc được bạn hữu nâng đỡ.

- Ở cung Tử nữ: chủ về có con cái thành đạt.

- Ở cung Phụ mẫu: chủ về được cha mẹ dìu dắt. Nếu chỉ thấy một trong hai sao Thiên khôi hay Thiên việt, thì quan hệ hôn nhân, tình cảm của cha mẹ hơi phức tạp.

- Ở cung Điền trạch: chủ về có thể lập nên sản nghiệp.

- Ở cung Tật ách: Thiên khôi thuộc dương hỏa chủ về bệnh đau mắt - Thiên việt thuộc âm hỏa chủ về đàm hỏa.


St- Theo quan điểm của bác Hà Uyên và Minh Giác (thay đổi quan điểm)

Chơi số trong tử vi - Bác Kim Hạc



Lá số của cô này có 17 anh chị em

Tinh số như Tam thai =3 , Vượng = 4 , Thất sát = 2 & 7, Dưỡng = 2 ,

Bát toạ = 8 . Tồn = 1 , TSinh = 5 -8 . etc .


Cách tính như sau :

Tràng sinh : từ 4 đến 8 vị . ( theo câu : Trường sinh Bát tử trung tuần Bán )
Bán = 1/2 . 8 chia 2 còn 4 . tức Tsinh có số là 8 ,đến tuổi trung tuần ( 30-40 tuổi )thì thường chỉ còn 4 hay 5 người .

Tuy Câu này là dùng để tính số con trong cung Tử tức ( bát Tử = 8 con ) , nhưng vẫn có thể vận dụng để tính số acm .

Bào cung có Thai -Toạ = 3 + 8 = 11 .
Tả -Hữu = 2 .
Tsinh = 4 . ( ko dùng Tsinh = 8 vì khi sinh đến khoảng 10 người con thì người Mẹ chắc chắn đã quá Trung tuần rồi )
Total = 17 .
Đây là cách ứng dụng Số trong TV .

Nếu ko dùng Tinh số thì Case này sẽ ko thể nhìn ra , cả TV lẫn Tử bình .
Hy vọng các vị sẽ quen thuộc và surpass phương pháp này trong quá trình ứng dụng .

PP này chỉ có thể sử dụng trong các trường hợp sinh sản tự nhiên , ko có sự can thiệp của 
thuốc men , phòng ngừa thai sản và chế độ sinh sản ( như TQ chỉ cho 1 gia đình có 1, 2 con . ) 

Thanh Long Hóa Kỵ - Bác Kim Hạc

Tlong ko nhất thiết phải đ/c với Kỵ mới thành cách ( nổi danh , gặp thời etc .. ), HKỵ tại Đối cung hay tại Tam phương đều có thể nhập cách nhưng Long -Kỵ đ/c là hay nhất . Thứ đến là tại đối cung . Sau rốt là tại Tam phương .

Đây là cách hiểu chung xưa nay như vậy ,bất kỳ tổ hợp tinh hệ nào , tác động mạnh nhất là Tinh hệ đó toạ tại Bản cung ( đồng cung ), thứ 2 là 1 ( hay 1 phần của tinh hệ ) toạ Bản cung và 1 toạ Di , như Trường hợp Toạ quý hướng Quý của Khôi -Việt .


Cuối cùng mới đến Tam phương .


Thanh long -Kỵ được sách vở đề cập đến như là 1 Quý cách , tại Mệnh thì dễ thành danh bỡi TL = Tên ( Name ) , danh xưng, danh vị , danh tiếng của Đ/sự .


Tại Tài thì dễ kiếm tiền trong hạn đó , tại Quan / Di thì thường thay đổi công việc ,nơi ở mà tăng tiến về công danh .

Hoá Kỵ là 1 trong Tứ Hoá , có thể gọi là Tứ KỲ , người ta thường loại bỏ HKỵ ra chỉ còn Tam Kỳ Khoa -Quyền -Lộc ,thật ra HKỵ cũng là 1 KỲ tinh ,ảnh hưởng của nó cũng lớn lao như tam kỳ kia , nhưng HKỵ có đặc điểm là thiên về tà ác ( những đặc tính xấu , phá hoại ) hơn là Chính .

Thanh long đi với Phi-Phục có nghĩa là thay đồi , đi xa . TL -Phi = rồng bay . TL -Phục = rồng nằm chờ thời .
Long -Phi -Phục = bay đi và đáp xuống / đi và về .


Riêng Thanh long là kẻ cơ biến , giỏi ứng biến . tính lạc quan , trẻ trung ..khi biến thành động từ , TL = đi máy bay , lái máy bay ( phi công ) .

nhưng đây chỉ là những ý căn bản , đi sâu vào chúng sẽ cho ra nhiều biến hoá khá phức tạp .Vì tinh hệ này có thể phân ra làm 3 , mỗi Tinh lại có những kết hợp khác ngay tại cung vị của chúng , ví như Phục cư Lưu Quan = có thể ngấm ngầm làm 1 điều gì đó . L. Mệnh : Phi -Hình = làm chuyện phi pháp , dính líu đến pháp luật . L. Tài : TLong - Hồng -Địa ko + Hoả -Linh -Kình = tiếng nổ lớn , bom , tạc đạn ..


TL -Kỵ = a. cỡi rồng , tức đi máy bay . b. dễ đắc danh vọng , vì Thanh long = danh vọng , danh vị, danh tiếng . kể cả tiếng xấu khi đi với Kỵ , vì Kỵ có 2 mặt ,tốt và xấu tuỳ theo hành động của đ/sự .


TL - Lưu hà = rồng Tắm sông ,rồng tắm sông chỉ là 1 tượng để hình dung mà thôi. Lưu hà có nghĩa là đi xa , TL thì thích biến hoá, thay đổi vì thế TL khoái Lưu hà .


TL- Mộc dục = rồng ..Tắm gội . thật ra TLong là danh tiếng , Mộc dục là mong cầu .là kẻ Không mong tài lợi nhưng ước vọng chút tiếng tăm với đời .