Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016

Lá số mẫu ông Sáu Cò - Sok Kong (1 cuộc đời ly kỳ - cách Song lộc)


Tóm lược

Một người VN thành công và thành danh nơi xứ người. Hiện giờ là Thượng nghị sĩ và là một doanh nhân thành đạt.

- Vợ đầu là người VN mất năm 78, nhà có 3 anh em : Ông Sáu, em trai và út gái và mẹ, tất cả vẫn còn sống ở Cam.


Ông Sáu cầm súng năm 1978 sau khi xẩy vụ thảm sát ở Ba Chúc. Nông dân nhà nghèo, Vào lính được biên chế vào binh đoàn lái xe vận tải chuyên chở súng ống đạn dược, quân dụng ra mặt trận, và chở thương binh tử sĩ về hậu cứ. Đó là hên vì không phải trực tiếp tác chiến.

Tháng 8, 9 là cao điểm mùa mưa ở Cam, đường xá bị ngập rất khó khăn trong việc vận chuyển, không thể đi đường vòng hay đi tắt để về tuyến sau, các điểm phục kích rất dễ xẩy ra vì các tuyến đường bị chia cắt nhiều vì nước ngập. Những tuyến đi được đều không tránh khỏi bị phục kích. Xe của Ông Sáu trong chuyến đi về bị phục kích trúng B40 cháy xém.

Hơn một ngày sau, quân tiếp viện mới đánh thốc vào mở đường lại, Ông Sáu bị cháy xém nửa người bên trái, thoi thóp trốn vào trong bụi rậm lấy xác thương binh che lên người. Miên Đỏ sau khi phục kích xong chúng lục soát từng xác một, ai còn thoi thóp chúng bắn chết tại chỗ luôn, sau đó chúng đặt mìn bẫy, gài lựu đạn dưới các xác chết, nếu không kinh nghiệm, đến nâng xác lên là lại thương vong.
Ông ấy lết được vào rừng trốn thoát chết. Nhưng di chứng sau này là vết cháy nửa người bên trái, tay trái bị sẹo co cơ thành tật, và mắt trái bị mờ.


Sau khi ra quân 79, ông Sáu về lại quê lúc đó làm ruộng cũng rất khó sống nên rủ người em trai tên là Chại ( Sok Vanna ) quay lại Cam.


Hai anh em đi làm phụ hồ, gập chủ Cam đàng hoàng thì trả tiền, gặp chủ Cam cà chớn, làm xong nó quỵt tiền rồi còn chửi là mày là jun về VN đi.

Đi thồ thuê ( mang vác ) thuốc lá lậu, thời " ba số 5 vừa nằm vừa ký, Samit nói ít hiểu nhiều " thì bị bắt mất hàng.Sau đó 2 anh em đi làm nghề đập nhà thuê, ai kêu thì làm. Sau chiến tranh có những nhà đổ nát vì chiến tranh, người ta thuê đập phá ra để xây lại.

Và đó chính là lúc mà 2 anh em ông Sáu đổi đời. Trong một lần đập nhà ông Sáu bắt được vàng, vàng đúc như những viên gạch xây trét vào tường để dấu.

Sau đó ông Sáu bắt đầu mua đất và công việc kinh doanh đầu tiên là mở cây xăng và từ đó phất lên.


Vàng của Cam phải ở lại Cam, ông ấy chọn ở lại Cam làm quê hương. Nhưng ông là một người sống rất đàng hoàng, không hợm mình khoe của, ông có đóng góp làm từ thiện rất nhiều như là xây trường học, trạm xá các vùng nông thôn nghèo, đóng góp cho Hội Chữ Thập Đỏ của Cam giúp đỡ các nạn nhân tàn tật, què cụt vì chiến tranh, nuôi trẻ mồ côi vì chiến tranh, hỗ trợ chính phủ trong việc xóa bỏ nạn mãi dâm vị thành niên. Ông Sáu là một người giàu có, thành danh và sống tử tế.


Bà thứ hai là người Cam, 2 vợ chồng có 3 trai đầu và út gái 

-----------------------------------------------------------------------



Một lá số hượng trọn vẹn Tam Hóa : Hóa Lộc, Hóa Quyền ( Thượng nghị sĩ, vua Sihanouk ban khen Công dân Danh dự ), Hóa Khoa ( chỉ mới là lớp 7, lớp 8 nhưng điều hành công việc kinh doanh mà người có bằng cấp chưa chắc đã bằng được ông ).

Cung phúc ngộ Triệt nên lập nghiệp phương xa. Cách lập nghiệp phương xa tuy có nhiều cách nhưng cách cung phúc ngộ Triệt nên lập nghiệp phương xa là tỷ lệ cao nhất. 


Năm 1979 trúng tổ hợp Hỏa Linh Hình Việt may mà có Quang Qúy Quan Phúc cứu giải
-----------------------------------------
Ông cầm vòng Thái Tuế lại cả Lộc Tồn. Đại vận 10 năm từ 25-34 Mã ngộ tràng sinh lại cùng thêm cả Phi Liêm hẳn sẽ dắt ông ta sang một miền đất mới để hoàn thành sứ mệnh của mình khi nơi đây ông Sáu đủ cả 3 vòng. Triệt đáo kim sẽ giúp ông đi xa, có lẽ ra bên ngoài biên giới, tuy nhiên trớ trêu thay trước khi ông có thể ra đi ông sẽ còn vướng thêm một đại hoạ, sát triệt mã sẽ khiên ông qua phen thập tử nhất sinh, duy vì mệnh lớn và sức sống mãnh liệt của Tràng Sinh sẽ không khiến ông gục ngã. Mùa thu năm Kỷ Mùi, Tuyệt khí đã hiện ra mang theo Hoả Hình Linh Kỵ mà giáng vào thân. Tang Mã lúc này gặp Hình có lẽ tan tành mây khói, Phi Liêm đụng Hoả chắc tóc cháy khét mù ( tạm dịch là toàn thân bỏng nặng, tang mã tràng sinh phi liêm thử gọi là một đoàn xe đang hành quân đi chiến đấu bị phục kích, tan nát hoàn toàn, ông Sáu may mắn thoát chết nhưng toàn thân bỏng rất nặng, tuy nhiên lúc đó thần trí ông lại minh mẫn lạ thường( có lẽ do Tuế kích Thiên Không mà trí tuệ thông suốt mà cố gắng lết bằng vai thoát khỏi lưỡi hái tử thần.

------------------------------------------
Ông Sáu có cung di đẹp Phá quân hóa quyền lộc mã khốc khách cư chiếu di, mệnh ông kim sinh thủy phá quân
------------------------------------------------------------
Nhìn cung Phúc: cách phân loại thượng, trung và hạ cách thì Thất sát ở đây vừa vượng địa hợp hành kim mệnh lại ở đất trường sinh của thổ cục.

LS này là một thí dụ hay cho cách Tuyệt xứ phùng sinh , cung Tài cư Thân ở tuyệt địa của mạng Kim (vì vậy mà nghèo lúc đầu chăng ?) , nhưng may có Tử Phủ sáng láng lại sinh cho bản Mệnh nên may mắn mà phất (đúng hơn là cho cơ hội). 

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2016

Vai trò của hàng Can & và bố cục các sao

Vai trò của hàng Can trong các câu phú Tử-vi * Cách bố-cục của các sao: thấy sao này biết ngay sao khác và đóan tức khắc
PHONG-NGUYÊN


1. Vai trò của các hàng Can trong câu phú
Chắc quý bạn ai cũng đều biết câu phú: “Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh”, và ai cũng hiểu nghĩa câu phú này đồng thời thấy dễ áp dụng. nhưng nếu ai hỏi quý bạn tại sao chỉ có các tuổi Giáp, Đinh, Kỷ mới được hưởng cách này thì chắc quý bạn sẽ lung túng. Thực ra các vị uyên thâm tử vi đều giải thích được cả vì trong các sách tử vi của người Tàu cũng có đề cập tới. Điểm này tuy khó nhưng nếu được nghe giải thích quý bạn sẽ thấy giản dị vô cùng. Có nhiều người đóan mò cứ cho rằng nêu ra hàng Can tức liên quan đến ngũ hành sinh khắc chế hóa, nhưng thực ra hàng can được nêu ra chỉ nằm mục đích nói tới cách bố cục của một số sao, nhất là Khoa, Quyền, Lộc và Lộc Tồn vì các sao này được xem là nhóm sao bổ túc tối cần thiết cho cách đã nêu ra trong câu phú (trong trường hợp này là Tử Vi cư Ngọ).

Bây giờ hẳn quý bạn đã hiểu sơ qua về lý do tại sao có hàng Can trong câu phú, và tôi xin bàn trực tiếp đến câu phú trên cho quý bạn hiểu rõ rang. Điều cần nhất là quý bạn phải nhớ cách bố cục của các chính tinh. Nghĩa là khi Mệnh có Tử Vi cư Ngọ thì phải nhớ Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung tại cung Tuất (tức là cung Quan Lộc), Vũ Khúc, Thiên Tướng tại Dần (tức là cung Tài Bạch), Tham Lang cư Tý (tức là cung Thiên Di), và sau hết là Phá Quân cư Thân (tức là cung Phúc Đức). Quý bạn chỉ cần nhớ các chính tinh tại những cung chiếu về Mệnh và tại cung Phúc là đủ, nếu nhớ thêm các cung khác thì hơi mệt óc một chút mà lại không liên hệ gì đến cách đóan. Có nhớ được như vậy thì mới hiểu được mau lẹ cách bố cục của các nhóm sao bổ túc kể trên vì các sao này luôn an theo các chính tinh. Như tuổi Giáp an Hóa Lộc đồng cung với Liêm Trinh (cung Quan), Hóa Khoa đồng cung với Vũ Khúc (cung Tài), Hóa Quyền đồng cung với Phá Quân (cung Phúc); riêng Lộc Tồn tuy không an theo chính tinh nhưng vì ảnh huởng của sao này rất quan trọng nên phải chú ý, và trong trường hợp tuổi Giáp thì Lộc Tồn an tại Dần, đồng cung với Vũ Tướng và Hóa Khoa. Qua cách bố cục trên quý bạn thấy rằng Tử Vi đã hội đủ Tam Hóa và Lộc Tồn như vậy có đáng làm “công khanh” hay chưa? Nhất là không được gặp Hình Kỵ lại càng chắc ăn nữa, như trong câu phú đã ấn định. Về sao Hóa Quyền đồng cung với Phá Quân tại cung Phúc Đức quý bạn phải hiểu rằng cũng thuộc về mình vì cung Phúc Đức rất quan trọng cho mình. Ngòai ra, ta còn phải kể tới các sao Tướng Quân, Quốc Ấn nữa vì khi Lộc Tồn an tại Dần thời đối với tuổi Giáp đương nhiên Tướng Quân phải đồng cung với Tử Vi ở Ngọ và Quốc Ân sẽ tọa thủ tại Tuất (cung Quan), và khi Tướng Quân ở Ngọ, Phục Binh ắt phải ở cung xung chiếu, tức là được cách “nội tướng ngọai binh” là cách chỉ huy. Các bạn nên ghi nhớ thêm là tất cả các tuổi Giáp (như Giáp Tý, Giáp Ngọ, Giáp Dần, Giáp Thân…) nếu áp dụng cho đàn ông thời đương nhiên là Dương Nam và do đó Tướng Quân phải cư Ngọ trong trường hợp trên. Nếu là Dương Nữ chăng nữa thì Tướng Quân lại lọt vào cung Quan, như thế vẫn trực tiếp “phục vụ” cho Tử Vi cư Ngọ. Nói tóm lại, quý bạn hẳn nhận thấy cách trên đã hội đủ gần hết những yếu tố cần thiết cho Tử Vi cư Ngọ trong khi các tuổi khác không thể nào được như vậy. Tỷ dụ như tuổi Ất chẳng hạn chỉ được mỗi Hóa Khoa đồng cung với Tử Vi, còn Quyền Lộc chạy sang các cung khác, hơn nữa còn có khuyết điểm nặng nề là có Triệt án ngữ tại Ngọ-Mùi vì Tử Vi sợ nhất Triệt và nguy hại hơn nữa là Tướng Quân ngộ Triệt (mà Triệt lại lại chặn đầu nữa!) (Đối với các tuổi khác, quý bạn cứ việc suy luận theo như trên là hiểu ngay).

Qua thí dụ trên đây, quý bạn thấy rõ là các câu phú thật là súc tích và do đó các nhà tử vi điêu luyện nhiều khi chỉ bấm sơ trên tay là đóan được liền. Đối với những người có óc thực tế họ chẳng nhớ câu phú mà cứ nhắm vào các sao bổ túc kể trên để phối hợp với các chính tinh, nhưng như thế cần phải có sẵn lá số trước mặt chứ không thể bấm trên tay mau lẹ được.

2. Cách bố cục của các sao
Trong mục này tôi không chỉ dẫn về cách an sao mà trong các sách tử vi đều có. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến vấn đề phải nhớ đến hệ thống cố định của các sao, nhất là của các chính tinh, nghĩa là khi thấy các sao này ở cung Mệnh là đương nhiên sao nọ ở cung Quan, cung Thê v.v… Mục này khác với mục trên ở điểm là không phải chú trọng đến các nhóm sao bổ túc mà phải lưu ý đến các chính tinh cùng những sao an theo hệ thống cố định (tỷ dụ như có Hoa Cái ở Mùi thì đương nhiên Thiên Mã ở Tỵ, có Tang Môn ở Mệnh là đương nhiên có Thái Tuế ở cung Thê hoặc Phu v.v…). Có nhớ được như thế quý bạn mới hiểu được dễ dàng những điều tôi sẽ trình bày sau đây.

Tôi còn nhớ Cụ Song An Đỗ Văn Lưu (tác giả cuốn Tử Vi Chỉ Nam) khi còn sinh tiền có kể cho tôi nghe là Cụ thường thi đua với các nhà tử vi lành nghề về phương diện an sao cho nhanh và chính xác, và tất cả những nhà tử vi dự cuộc thi đặt điều kiện là phải an từng cung cho xong mới được qua các cung khác, chứ an theo cách đếm thường lệ thì rất dễ dàng. Tôi nêu ra chuyện này không phải đề cao Cụ Đỗ Văn Lưu vì thực ra Cụ đóan tử vi cũng chẳng giỏi gì, mà chỉ muốn nói rằng việc an sao như vậy rất có lợi cho cách đóan tử vi, nhất là khi muốn bấm bằng tay. Thực thế, khi quý bạn vừa nói với thầy tử vi là mạng quý bạn có Liêm Sát chẳng hạn, nếu thấy ông thầy đóan ngay lập tức là người vợ quý bạn đàng hòang, trung hậu, đảm đang thì bạn có phục và ngạc nhiên hay không? Nhưng nếu bạn nhớ cách bố cục cố định thì quý bạn cẳhng cho là lạ chút nào, vì khi cung Mệnh có Liêm Sát thời đương nhiên cung Thê có Thiên Tướng là sao có những đặc tính nêu trên, dù cho có gặp những sao khác chế hóa đi, cũng chỉ sai lệnh chút ít mà thôi.

Tôi xin nếu thêm một ví dụ khác nữa nếu biết cung mạng của quý bạn có Tang Môn ở bất cứ vị trí nào là tôi có ngay một khái niệm hạnh phúc lứa đôi của bạn, nghĩa là tôi đã biết sơ sơ là vợ chồng bạn (trường hợp có gia đình rồi) nương tựa lẫn nhau trên đường đời tuy hơi khắc khẩu.

Tại sao vậy? Cũng suy luận như trên khi mạng có Tang Môn thì cung Phối pảhi có Thái Tuế là sao hay cãi cọ, khẩu thiệt, nhưng cũng nói lên là sao nương tựa lẫn nhau vì tuổi mình ẩn trong sao đó (Thái Tuế an theo tuổi) và như vậy cung Thê phải đóng tại cung tuổi mình, tức là cách truyền cung mà tôi đã khen trong bài “Hạnh phúc vợ chồng qua cung Phối” đã đang trên KHHB. Nếu ngược lại, quý bạn cho tôi biết là cung Thê của quý bạn có Thái Tuế là tôi biết ngay quý bạn có tính đa nghi, hay hờn dỗi, ưa nghiên cứu kín đáo, có óc tế nhị, học hành dễ bị gián đọan hoặc chậm trễ; đó cũng chỉ vì tôi biết cung Mệnh của quý bạn đương nhiên có Tang Môn tượng trưng cho các tính chất trên.

Để chấm dứt mục này, tôi xin nêu ra một câu phú thong thường để nêu rõ sự cần thíêt về việc ghi nhớ cách bố cục cố định của các chính tinh. Đó là câu “Cự Nhật Dần Thân, quan tam đại”. Tại sao chỉ có cách Cự Nhật này mới được “quan phong tam đại”? Lại cũng suy luận theo cách bố cục của các chính tinh, ta thấy khi Mệnh của mình có Cự Nhật thì đương nhiên cung Ph1uc có Cơ Lương (ở Thìn hoặc Tuất) và cung Tử Tức có Thiên Phủ. Như thế phải 3 đời làm quan không? Cung Phúc có Cơ Lương ở Thìn Tuất thì ông cha của ta phải có chức phận trong chính quyền; cung Mệnh của ta có Cự Nhật thì chính ta phải làm quan, rồi đến cung Tử Tức có Thiên Phủ thì con cái ta cũng phải là người có công danh trong xã hội, lớn hay nhỏ còn tùy theo các sao khác, nhưng dù sao ta cũng mường tượng được dòng dõi của Cự Nhật rồi.

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi & 10 dữ kiện khi giải đoán

10 dữ kiện khi giải đoán Tử vi 
Giáo sư Lê Trung Hưng


1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt. 
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.

Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :

a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy) 
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi 
Giáo sư Lê Trung Hưng

Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây : 
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí” 

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó 
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô. 
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ 

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2016

Lá số mẫu ca sĩ Thanh Nga (tài hoa bạc mệnh, phi việt hỏa linh hình cách)


Thanh Nga
Những cuộc tình đầy nước mắt và cái chết nhiều bí ẩn, và sự dự cảm về cái chết

Gia đình Thanh Nga còn có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như:

Nam Nghĩa (cha dượng)

Bảo Quốc: (em cùng mẹ khác cha)

Hữu Châu: (con của nghệ sĩ Hữu Thìn, anh ruột của Thanh Nga) 


Đó là cung Phúc có XK, Quang Quí, Đào Hỉ, Thai Toạ

Thanh Nga có dự cảm về cái chết vì Mệnh Thân bị Linh TInh Hỏa Tinh trùng chiếu .


Tả Phù Hữu Bật nối liền Mệnh Thân nên cô đuợc giới nghệ sĩ tặng cho danh hiệu "Thanh Sắc vẹn toàn" còn cao vinh hơn cả Cải Luơng Chi Bảo Bạch Tuyết vì Thanh Nga có Thiên Việt + Khôi (1). Nghề nghiệp là Quan, có Đào Hồng Hỉ, đắc Lộc Khoa, xuất phát từ phúc tộc nghệ sĩ thì cô lộng lẩy duới ánh đèn màu nhưng Đào Hồng lại trúng sát tinh KK bao vây Thân Mệnh lúc cực điểm vinh quang là lúc mệnh khí đã hết .


DH vào khu vực Sát Phá Tham đều hãm . Các lực luợng có thể cứu giải quá ít :


Triệt đã mờ dần không cản nổi cách Hình MãTang Tuớng là cách tuớng chết vì súng đạn


Trái lại Triệt + Hình càng chặt phá Mộc mệnh thê thảm .


Hai Lộc + Khoa càng nổi danh chừng nào thì không còn gì để giải cứu khi gặp nạn . Có tiền bối cho rằng nếu Thanh Nga chỉ là 1 nghệ nhân bình thuờng ở thôn xóm thì đâu đến nổi chết như vậy .


(1) Phụ mẫu có Tấu Thư (ca, tấu nhạc) Văn Khúc (nghệ sĩ) ắt truyền lại cho Thanh Nga qua ngõ cung Tật .


Cái chết xa nhà 

DH vào Tử xung chiếu với Điền . Nhưng nhà của Thanh Nga thuờng là các hotel, các tư gia của các FANS , vậy chết không phải ở tư gia .


Lưu Di = cung Điền đầy di động .


Năm chết 1978 = Mậu Ngọ


Lưu Thái Tuế vào Ngọ: bộ Hình Riêu tác động, gia Kình + Đà, chết vì oan trái, nghiệp báo, cũng bị sát thuơng .


TH vào cung Thìn có Hoá Khoa : nên nhớ Thanh Nga quá nổi danh nên Khoa không còn sức cứu nữa, trái lại đám tang của Thanh Nga gây chấn động, rất nổi tiếng là vì Khoa . 2 Đà + 1 Kình bao vây TH tức bị hình thuơng .


LNDH vào lưu Di gặp Hình Mã Tuớng 2 Tang 2 Hổ : đây là điểm quan trọng nhất giết chết Thanh Nga .


Toàn bộ lực luợng của bộ Lục Bại bao vây cung DH .


Có thể nào nghiệm lý tới tháng, ngày, giờ chết không ? Lưu ý có thể Thanh Nga chết trong giờ Hợi hay giờ Tý của ngày hôm sau (khoảng 11 giờ đêm án mạng xãy ra).


Ngày 26 tháng 11 DL, 1978 = ngày 26 tháng 10, Mậu Ngọ


Nguyệt hạn vào Tuất trúng 2 Đà 1 Kình + Thiên Hình + Lưu Thiên Hình tại Ngọ, toàn là sát hung tinh hành Kim chém mạng Mộc . Cũng nằm trong tam giác bao vây bởi bộ Lục Bại (Tang Hổ Khốc Hư Song Hao).


Thử xem ngày 26 giờ Hợi có chết không ?


Chết 1 lúc với ông chồng Luật Sư khá danh tiếng nổi tiếng tài hoa . Như vậu lúc lấy ông ta, Lưu Phu vào cung Sửu để hứng bộ Cự Đồng gia XK Quang Quí Thai Toạ XK thì chồng thuộc gia đình danh tiếng cũng rất nghệ sĩ vì CỰ Đồng cư Phúc cung của Thanh Nga như đã trình bày ở bài truớc .


Khi DH vào Dần thì Lưu Phu vào Tý cũng là cung Tật Ách có Kình rất ác hiểm .


Nếu chết ngày 26 giờ Hợi thì thời hạn vào cung Tuất, còn nhật hạn vào cung Hợi . Cứu xét thấy cũng khả dĩ chết vì thời hạn trúng Kình Đà 2 Hình .


Nhưng xem ngày 27 giờ Tý thấy đúng hơn .


Nhật hạn vào Tý, thời hạn cũng vào Tý tức 2 Tý xung với lệnh Thái Tuế tức Ngọ là điều ko nên .


Cả nhật hạn và thời hạn đều trúng Thiên Hình từ Ngọ và 2 Kình + 1 Đà tập kích vào cung Tật có ông chồng cư cùng 1 chỗ tức Lưu Phu an Tật . 


Như vậy có lẽ ngày 27 giờ Tý là lúc lâm chung của 2 vợ chồng Thanh Nga .


( - Lời bình của bác hoacai)


Chiêu thứ nhất về sắc đẹp của nữ giới :
Càng miếu đẹp chừng nào thì không đẹp 
Ví dụ Tử Vi cư Ngọ, Đồng Luơng cư Dần 
Nét đẹp của chính tinh hãm thuờng sắc xảo và thu hút, nhất là Cơ Âm .
Mệnh ẩn của cô này nằm ở cung Di và cung Điền, tức Thiên Cơ và Thiên Tuớng 
Lấy Thiên Cơ vì cô này xuất hiện liên tục truớc công chúng tức cung Di 
Lấy Thiên Tuớng vì cô luân phiên lưu diễn, mỗi ngày ở 1 nơi khác nhau như vậy Điền gặp Song Hao gặp Mã lưu diễn tứ phuơng 


Thiên Cơ rất sợ Hỏa Linh tiết khí trầm trọng, còn Thiên Tuớng bị vạ khủng khiếp khi gặp Thiên Hình + Mã 


-----------------------------------
(tác giả: LienHuong)

Khoan xét tới yếu tố đương số sẽ ảnh hưởng ở ngôi sao nào trong tam phương tứ chính, yếu ố đắc hay hãm, Nữ giới thủ Mệnh ngôi sao Thái Âm đã là một hợp cách. Ngoài ra cung Quan “An Thân” là Dương Lương ngộ Tuần: Xấu hay Tốt còn phụ thuộc vào nội tình bản cung (Dậu) và tam phương, xung chiếu…..

A. Nếu đây là 1 lá số vừa ra đời, người xem tử vi sẽ nói đương số sẽ làm gì?



1. Mệnh có bộ Âm Dương:


- Đó là các yếu tố Tháng, ban đêm, âm thầm, chủ nghe (âm thanh) – Ngôi sao Thái Âm (và còn nhiều nữa);


- Đó là ngôi sao chủ ngày, chủ phô trương, công khai, chủ nhìn (mắt) – Ngôi sao Thái Dương;


Nếu chỉ nhìn tới đây thôi, thì chỉ có thể nói người này sẽ làm công việc gì đó: có thể là âm thầm, có thể là công khai, có thể làm ban đêm….Nói chung là không nhận xét được gì cả…, xét thêm:


2. Cung An Thân:


- Mệnh có Thái Âm, cung An Thân có ngôi sao Thanh Long: đây là người có thiên phú cho 1 giọng hát hay.


- Cung An Thân có Hóa Lộc (tuổi Nhâm Lương hóa Lộc): ngôi sao Thiên Lương là ngôi sao phô bày, trình diễn để sinh ra Lộc.


Xét thêm:


Bộ Linh Hỏa: Như tôi đã hơn 1 lần về bộ sao này nay xin nói thêm đôi điều về nó.


- Là bộ sao sẽ rất hợp cách khi đi với Tham Lang, Tử vi;


- Đây là bộ sao đa nghĩa: lạnh – nóng (tính khí), điên, nổi giận,nồng nàn, lạnh nhạt….Hỏa Tinh thiên về lửa, Linh Tinh thiên về điện….còn rất nhiều nữa không tiện liệt kê cũng như nó có ý nghĩa gì phụ thuộc vào sao đi kèm.


o Linh Tinh: đây là ngôi sao Linh cảm, linh ứng………và còn là vì sao sáng khi đi chung với cát tinh hợp cách;


o Linh Tinh là ngôi sao diễn viên khi nó đi với các ngôi sao như: Hồng Loan, Tấu Thư, Đào Hoa nhất là có Thiên cơ, Vũ Khúc. Là siêu sao, hay vì sao sáng, sao mờ tuỳ thuộc vào chính tinh và Linh Tinh đắc hay hãm địa và nhóm sao Khôi Việt và Tam HOÁ chủ thành đạt.


Ở đây, chủ nhân lá số có đủ cả các yếu tố để trở thành một ngôi sao sáng: Khôi Việt, Hóa Lộc và hạn kỳ lá số để dương danh.


o Linh tinh: còn có nghĩa là ngôi sao rụng, linh hồn người đã chế khi vào vận hạn ĐỦ XẤU – Linh Tinh còn gọi là ngôi sao Yều! Có người còn nói Mệnh Thân có ngôi sao này khi chết sẽ rất Linh (có trời mới kiểm chứng được.


LINH phùng SÁT PHÁ hạn hành. 

Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung”.



+ Một chữ Tuần Trung ở cung Quan: một không gian giới hạn để trình diễn, buồn – vui, khóc – cười chỉ những người bên trong chữ Tuần thưởng lãm.


Tam Không ngộ Kiếp Linh: 


o Bộ Âm Dương ngộ (Địa) Không: lợi cho các ngành nghề nghiên cứu, báo hiệu một khả năng không giới hạn (như bình thường). Nói nôm na nó như một khoảng không bao la không bến bờ, một sức sáng tạo (sáng tạo gì còn tùy thuộc vào sao kèm theo), nhưng Âm Dương tối kỵ ngộ Tam Không + Kiếp mà ở đây:


o Cung an Thân có Tuần trung không vong, Địa Không, xung có Triệt lộ không vong và Kiếp nhờ Tuần kéo về. Đây là 1 cách cục cự kỳ xấu, một báo hiệu cho đương số không có sự phục vụ của thân xác (1)


3. Một số nhận xét thêm về Mệnh Di:


Mệnh Âm Dương Lương + Thanh Phi Phục, Thiên Di cung là Cơ Cự Đồng ôm trọn bộ Linh Hỏa, bộ Đào Hà Sát + Thiên Mã + Lộc Tồn:


Bộ Lộc Phi – Khi Phi Liêm tọa mệnh: đó là Mệnh có Phi và Thiên Di cung có Lộc Tồn à sự may mắn trời cho của số mệnh.


Bộ Đào Hà Sát à giành được, đoạt được hay bị giành, bị đoạt khi ra ngoài. Một cánh hoa lưu lạc (Đào Hà).


Hỏa Linh: một báo hiệu xấu khi số Mệnh chọn con Thiên Cơ + Đào Lộc Tồn để dương danh, để mọi người tưởng nhớ, tiếc thương Khôi Việt, và Tồn Tướng Ấn. Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương tối kỵ Hỏa Linh. Ngoài ra, dấu hiệu ở Mệnh Di còn là đa đoan trong cuộc sống tình ái.


Trở về với Tiêu đề mục A:


Nếu đây là là một lá số của A, B nào đó không phải là Nghệ sĩ Thanh Nga, vậy con đường đi họ sẽ là gì?


Thật khó nói trước con đường đi của một ai đó khi “chính bản thân ta nào biết mai sau ….thế nào?” nhưng ở góc độ Lý (trong chữ lý số nghĩa Việt Nam):


- Nếu chủ nhân lá số là một người Đầu Bếp, và sẽ là một Đầu Bếp có danh thì biết đâu không bị kiếp nạn “Đào hoa bạc mệnh”!


B. Trở về với năm, tháng, ngày định mệnh:


Quan điểm an Khôi Việt của người viết: tuổi Nhâm Khôi ở tỵ, Việt ở Mão và một số khác biệt ở tuổi khác…..


Đại hạn định Mệnh của lá số ở cung Tử có cách SPT, như ta đã biết: các cách cục Âm Dương, Cơ nguyệt Đồng Lương hạn kỳ đến SPT đều mệt mỏi (khoan bàn xấu tốt). Ở đây chủ nhân lá số Âm + Linh hạn ngộ Sát Phá Tham + Đại Hình + Bạch Hổ có Đà.


Năm Mậu Ngọ - Tham Nguyệt Bật Cơ; Lộc Tồn ở Mệnh cố định và


Gốc Đại hạn: là Sát Phá Tham ngộ Lưu Kình Linh Hình bạo ngược…hội cùng Cơ Kỵ Hỏa. Tỵ Dần Lục hại hội cùng Âm Linh + SPT + Đại Hình + Bạch Hổ cố định.


o Lưu Việt (tại sửu)Lưu Tuần Triệt + Tồn Kiếp + Địa Không: Việt Triệt báo hiệu sự vượt thoát nhưng ở đây Việt Triệt + Sát tinh: không thể vượt thoát. Nếu xem cung Đại hạn như “hoàn cảnh cung Mệnh” thì Tỵ Dậu Sửu là hình ảnh “hoàn cảnh” cung Tật Ách


Tiểu hạn tại Thìn – Thiên La:


o là Tang Hư Khách ngộ Đà Xương La nguy hiểm với người có Linh để hình thành cách Linh Xương La + Mã Đà. Tương tự trên thì đây là “hoàn cảnh cung Di”. Thân Hợi lục hại. Lúc này “hoàn cảnh cung Tử là Cơ Hỏa Lưu Thanh Phi Phục+ Đào Hà sát cố định gặp Lưu Đào Sát có Lưu Hà xung;


Tháng Quý Hợi, lần lượt là hình ảnh của Đại, Tiểu hạn, hạn tháng, ngày:


Đại hạn: Đó là Âm Linh ngộ SPT + Hình cùng các sao Lưu Cô Quả + Thanh Phi Phục


Tiểu hạn: Đào Hà Sát cùng ngôi sao Tử vi ngộ Tuần + Triệt


Tháng: Bộ Lưu Đà Khôi Hỏa (cố định) + Lưu Việt Mã + Âm Linh (cố định) xung.


Ngày Quý Tỵ: 


Lưu Việt ngày (+ Việt tháng) + Âm Dương Lương + Linh cố định hội Đại Không Kiếp có Cơ Hỏa + Lưu Đà, lúc này tại:


Tiểu hạn tại Thìn: là bộ Tướng Ấn + Cô Quả;


Gốc Đại hạn: SPT + Hình + Thanh Phi Phục + Lưu Đào Hà Sát


Nhận xét: chủ nhân lá số hạn kỳ vào SPT + Hình Mệnh có Khôi Linh hạn kỳ như đã phân tích: từ “ kịch bản tổng thể” Mệnh – Tài – Quan, đến “kịch bản phân cảnh” Đại – Tiểu hạn – Tháng – Ngày đều hội đủ cách cục: Âm Hỏa Linh Hình Việt do Đào Hà Sát Phục từ bên ngoài tác động vào à sẽ bị hình thương! 



Câu hỏi đặt ra: trong một trận đánh bao binh sĩ bị thương nhưng có người chết, người bị tàn tật vì một phát súng…..Vậy yếu tố chết của lá số là ở đâu?


Đó chính là cung An Thân cát hung tương bán, một cung Di Cơ Tồn Hỏa, một đại hạn SPT, mà vó câu cuộc đời lại nằm ở tam giác cung Ách Tuần Kình Mã Hình + Cô Quả + Khốc Hư. Tuy được bao người ngưỡng một (Phượng Tang) cũng là hình ảnh bao người tiển đưa khóc than.


Nhưng quan yếu vẫn là cung An Thân:


Một chữ Tuần như vòng ngắm của khẩu súng:


Đó là Tuần Kiếp Không + Âm Dương xung là Đào Triệt để dủ tam không ngộ Kiếp. Như đã trình bày ở trên bộ Âm Dương tối kỵ Tam Không, ở đây còn ngộ Phục Kiếp Linh để thêm lời khẳng định;


Bộ sao Thanh Phi Phục là bộ sao hòa bình khi đi với Cơ Nguyệt Đồng Lương nhưng số phận khéo an bài khi hạn kỳ vào Sát Phá Tham ngộ Hình. Bộ Phi Lộc (xung) có Đào là hình ảnh người được hưởng ân sủng Thiên Lộc thì nay thành tiếng nổ (Âm + Thanh Phi Phục Linh Hỏa) của bọn người Phục Kiếp.


Nữ Mệnh, Âm Dương Lương hiền hòa hạn kỳ Sát Phá Tham không có sát tinh còn bị chèn ép huống chi đây là Hình Kình Linh chi ngược.


Ngôi sao Hỏa, Linh Tinh + Khôi Việt: một ngôi sao trên sân khấu sáng rực nay hạn kỳ Trở thành linh hổn (Việt Linh), một ngôi sao rụng giữa lúc nó sáng nhất.


Một cung Di như sự lựa chọn bất hạnh hay hạnh phúc (thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt) Ngoài đời có câu: “Thân gái 12 bến nước” thì đây, bến nước cuộc đời của lá số là con sông Lưu Hà, ở đó, cánh Đào Lưu trôi giạt để người đời sau luôn tưởng nhớ đó là Đào Tồn Tướng Ấn? Rồi hạn định sưu tập đủ: SPT ngộ Hỏa Linh Hình khi có bộ sao lựa chọn Đào Hoa, ngôi sao kích hoạt Thiên Việt (phát sinh, xảy ra….).


Vậy cùng một sự việc hãy nhìn cung An Thân cố định và hình ảnh cung an thân hoàn cảnh mà xác quyết Tồn hay Vong!

---------------------------------------------

VỀ CHUNG THÂN CUỘC ĐỜI. – Đáng tiếc ở chổ Thái Âm thủ mạng đã bị lạc hãm, nhưng cũng nhờ được các trung tinh hội hợp sáng sủa: Tả phù Hữu bật, Hóa Lộc, Lộc tồn, Ân Quang, Thiên Quý.

Nhưng sao Thái Âm ở đây không có ảnh hưởng làm cho nghèo hèn, chỉ gây ra sự chật vật và những ưu tư, nhất là vào quãng đầu. Do ảnh hưởng Thái Âm, cô này là người có nhiều tự ái, có những ý kiến và sở thích riêngHữu biệt nhất định giữ vững, người khác áp đảo vào thì cô cứ lì ra.

Cuộc đời tốt nhất các Song Lộc, thế nào cũng lắm bạc nhiều tiền, nhất là ở hậu vận.

Cái đẹp ở cung số này là sự đúng đắn, chỉ hiềm trắc trở tình duyên trong một quãng thời gian, giả sử lấy chồng trễ hẳn, thì tránh được những chật vật. Nhưng qua một đời chồng hoặc có trắc trở lớn, thì đến đời chồng thứ hai là phải tốt đẹp. Cuộc tình duyên thứ hai này nếu có gặp trắc trở rồi mới hình thành; hoặc chính ông chồng cũng gặp những trắc trở, hoặc là tay biết ăn chơi, thì cuộc tình duyên thứ hai sẽ tốt đẹp, vững vàng. Đó là vì Đào Hoa ngộ Triệt.

Về tử tức, càng muộn con trai càng hay; hoặc sanh con gái trước để nuôi. Cuối cùng cũng được 3 con trai. Cần luận đoán nhiều về ảnh hưởng của Bạch hổ tại cung Tử tức.

Về điền trạch, có nhà cửa đồ sộ (Tử Phủ Vũ Tướng ở Điền).

----------------------------------------
Trong Mệnh đã sẵn Hỏa Linh Việt Kiếp, đến đại hạn có Hình thì thành cách " chết vì mũi tên hòn đạn". Kiếp Không Hữu bật Phục binh thì thế nào cũng bị ám toán. 
----------------------------------------

Năm Mậu ngọ, Lộc tồn lưu vào cung Tỵ, tôi ký hiệu bằng hình vuông đỏ. Hai hình vuông đen bên cạnh là Kình và Đà Lưu.
-Lưu Kỵ tại Hợi, và hai ô đen bên cạnh cũng chịu tác động, nên hai ô tròn màu đen.
-Lưu Lộc tại Ngọ được kí hiệu bằng ô đỏ và 2 vòng tròn đỏ tiếp giáp.
-Đại vận 37, Nhâm Dần, nên năm đó tứ hóa đại vận và tứ hóa Lưu Niên trùng nhau. Lộc tồn đại vận cũng xâm phạm vào cung Hợi, trùng với Lộc Tồn Cố ĐỊnh
Ký hiệu là hai vòng tròn chồng lên nhau.
-LNTT vào cung Bính Ngọ, Vậy Lộc Tồn Bay xâm vào cung Tỵ, trùng với Lộc Tồn Lưu.


Bây giờ ta luận đoán.
1-Như đã nói, có cách cục Việt Lịnh Hỏa Kiếp BInh treo lơ lửng trên cung mệnh. Chỉ cách cách cục này rung là tai họa này xảy ra.
2-Các cách cục chính trong tam hợp còn có thêm: Lộc Tồn cố định+kiếp sát lưu hà. Điều này có nghĩa, theo thiên lương, thì khi hưởng lộc tại cung thiên Di quá nhiều thì Kiếp sát và Lưu Hà ra tay.
3-Mệnh chủ như mọi người xác định, là Thiên Cơ. Nhưng tôi cho rằng với khuôn mặt thế này thì chắc mệnh chủ là ăn theo Thái Dương. Cách cục chủ là Nhật Đào Hồng Hỉ, gặp quang quý KHông Kiếp.

Quang quý là tác nhân catalyst điều khiển cho cặp Không Kiếp chạy đúng đường, lại chiếu sáng Phúc làm cát hoá ĐỒng Cự. Đương số do đó trở thành một nghệ sĩ, có tư duy khoáng đạt. Tuy nhiên, KK hãm vẫn là hãm, nên QQ có điều khiển cũng không đủ sức chạy lâu,
Tam minh Đào Hồng Hỉ, đi với Nhật được cát hóa, KK được điều khiển làm cho đương số nổi danh.
__________________________________________
Khi nhập đại vận Trúc La
-thứ nhất là Nhật nguyệt KK rất sợ SPT hãm, cái này mọi người đã nói. Vậy gốc đại vận cực xấu.
-Tiếp theo, Ta chú ý, có cách cục Xương Đà Kỵ Vũ treo trên đại vận,  Tuần mở ra vì Đại Vận Tuần chạy đến cung Thìn Tị rồi còn đâu. Ngoài ra còn có Hình Hổ Hao nằm ngầm dưới đại vận.
Đại Vận có Nhâm, làm cho Vũ Khúc hóa Kỵ tại cung Thiên Di Đại vận.
Hóa Kỵ đại vận làm cho cách cục Xương Đà Vũ Kỵ+Hình Hổ Hao rung. XƯơng Đà Vũ Kỵ là sát khí, SPT hãm+Hình Hổ Hao là cách cục thi hành. Triệt được mở ra do Xuất không điền thật, hứng trọn bộ sát tinh. Triệt đại vận chạy đến cung Thìn Tị, xâm vào cung Phúc đại vận có Thiên Phủ, làm phúc khí giảm hoàn toàn.
Vậy đại vận này đương số gần như sẽ chết. Khi nào chết?

Lộc Tồn lưu vào cung Đại Vận, kích hoạt cách cục Kiếp Sát Việt Linh Hỏa, Phục Kiếp Không Tả Hữu, tại cung thiên Di cố định.

Tiểu vận
Năm Mậu Ngọ,Lộc Tồn lưu nhồi thêm phát nữa vào cách cục Linh Việt Phi liêm không kiếp phục. Cách cục này rung dữ dội :D
Hóa Kỵ Lưu đi vào cung Hợi,  làm active thêm Kình dương và Đà La cố định. Có Lưu đà la xâm vào cung tiểu hạn, kết hợp thêm bộ Xương Đà Kình Vũ rung, treo trên cung tiểu hạn.

Lưu thái tuế vào cung Bính ngọ, tạo thành cách cục Kình Đà Hình Hổ Hao thương sứ rung+SPT. Bính NGọ làm Lộc Tồn bay thái tuế chui vào cung Tỵ, kéo theo cách KÌnh dương nữa, chui vao cung LNTT. Đủ để giết chết đương số chưa nhỉ?

Vậy tất cả đúng số chết của đương số.


Question:


1-xét cách cục cố định Hỏa Linh Việt Tả Hữu Phục BInh KHông Kiếp. Ai ai cũng biết đây là cách cục ra ngoài bị cướp.
Tuy nhiên, không thể nào ra ngoài bị cướp giết cả đời đựoc, mà xảy ra khi nhập hạn.
Cụ thể hơn, khi Lưu Thái Tuế, Lưu Lộc và Lưu Kị làm cách cục này rung.
Tuy nhiên: Vì đây là cách cục cố định, mà khi Lưu Hóa Kỵ tác động vào cách cục treo trên cung cố định gây ra cảnh chết chóc, thì  mệnh đã được di đến cung khác rồi, tại sao đưong số vẫn chết? 
Di cung theo LNTT, rồi mượn cung Di của họ, thì anh em của đuơng số chết mới phải.
Di cung theo Tiểu vận rồi cũng mượn cung thì bố mẹ đuơng số chết mới là hợp lẽ trời.
DI cung theo Lưu niên đại vận thì LNDV tử tức dính mới đúng.
Tóm lại cách cục cố định rung làm chết toàn bộ họ hàng . Vui quá.

Còn nếu đưong số chết, thì ta thu được mệnh đề "Lưu Hóa Kỵ hoàn toàn có thể tác động lên cung nguyên thủy, và thậm chí tác động cực mạnh"
Hệ quả, toàn bộ lý thuyết VDTT, Thất Sát, hoặc lý thuyết Vận hạn phân ly đều phải được lật lại, hoặc cần phải major improvement?


---------------------

Lưu niên Đại Vận: Hạn đến cung Thân, đủ bộ Khốc Hư chỉ tin buồn, HÌnh Hổ Hao, Tang Môn gặp Lưu Tang môn, chỉ hạn cực xấu.
Phúc LNDV gặp Thất sát hãm+Đà La, trực chiếu là Lưu Đà La+Đà La bay--->Phúc khí giảm đến mức thấp nhất.
Lưu Phu chạy vào cung Ngọ, trùng với LNTT của chính đưong số, tôi đã giải đoán rồi. 
tạo thành cách cục Kình Đà Hình Hổ Hao thương sứ rung+SPT. Bính NGọ làm Lộc Tồn bay thái tuế chui vào cung Tỵ, kéo theo cách KÌnh dương nữa, chui vao cung LNTT. Đủ để giết chết chồng đương số chưa nhỉ?

Từ đây rút ra kết luận, xét Di cung theo LNDV có lẽ là chuẩn nhất. Xét Di cung kiểu Tử Vân không thấy chồng đuơng số chết.